Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2014

Manchester United F.C

Câu lạc bộ bóng đá Manchester United là một câu lạc bộ bóng đá Anh, trụ sở tại Trafford, Greater Manchester. Đây là một trong những câu lạc bộ thành công tại nước Anh, đã từng vô địch bóng đá Anh với kỷ lục 20 lần, đoạt Cúp FA 11 lần và UEFA Champions League 3 lần.

Đại kình địch của Manchester United là câu lạc bộ Liverpool, Leeds United, Arsenal và đội bóng cùng thành phố Manchester City.

Lịch sử
Manchester United được thành lập năm 1878, mặc dù dưới một cái tên hoàn toàn khác - Newton Heath LYR (Công ty Đường sắt Lancashire và Yorkshire).

Một chút hoài nghi về ảnh hưởng của mình đối với cuộc chơi trong nước, thậm chí trên thế giới, những người công nhân trong khu đường sắt tại Newton Heath chỉ muốn hưởng thụ niềm đam mê của mình qua những trận đấu với đội bóng của những bộ phận khác của công ty đường sắt Lancashire và Yorkshire hay những công ty đường sắt khác.

Thật ra, khi Liên đoàn bóng đá Anh được thành lập năm 1888, Newton Heath không nghĩ rằng họ đủ khả năng để trở thành những thành viên sáng lập như những câu lạc bộ khác trong đó có Blackburn Rovers và Preston North End. Thay vào đó họ đã chờ đến năm 1892 mới bắt đầu bước vào cuộc chơi. Tuy nhiên, họ bắt đầu mùa bóng đầu tiên thật tệ hại, đứng cuối bảng và phải đá trận play-off với Small Heath (nay là Birmingham City) để trụ lại.

Đoạn phim được biết đến sớm nhất của Manchester United là trận thắng 2–0 tại Burnley vào ngày 6 tháng 12 năm 1902, quay bởi Mitchell and Kenyon.


Đội Manchester United team vào mùa giải 1905/6. Họ đã giành ngôi á quân giải hạng nhì và được lên hạng
Những năm sau đó, Newton Heath gặp rất nhiều khó khăn về tài chính, thậm chí khi bắt đầu bước vào thế kỷ 20, họ đã dự định giải thể đội bóng. Tuy nhiên, một ông chủ nhà máy bia ở địa phương, John Henry Davies, đã đứng ra cứu câu lạc bộ. Chuyện kể rằng John Henry Davies chỉ biết về tình hình khó khăn của đội bóng khi ông bắt gặp một con chó của đội trưởng Newton Heath, Harry Stafford.

Davies quyết định đầu tư vào đội bóng chỉ với mong muốn được điều hành nó. Điều này đã dẫn đến việc thay đổi tên của đội bóng, sau một vài lựa chọn như Manchester Central và Manchester Celtic bị từ chối, cái tên Manchester United đã ra đời vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1902.

Nhân vật có ảnh hưởng tiếp theo đến với Manchester United là Ernest Mangnall, người được bổ nhiệm làm thư ký cho đội bóng vào tháng 9 năm 1903 nhưng được biết đến nhiều hơn như là huấn luyện viên đầu tiên của câu lạc bộ. Câu lạc bộ của Ernest Mangnall, cùng với những cầu thủ mới ký được như thủ môn Harry Moger và tiền đạo Charlie Sagar, đã kết thúc ở vị trí thứ ba giải hạng hai mùa giải 1903/04 và 1904/05.

Mùa giải tiếp theo, 1905/06, đã chứng tỏ là một trong những mùa giải vĩ đại nhất trong giai đoạn đầu của Manchester United. Hàng trung vệ với Dick Duckworth, Alex Bell và đội trưởng Charlie Roberts có công rất lớn khi đưa đội vào tới vòng tứ kết cúp FA, nhưng quan trọng hơn là đội bóng đã kết thúc mùa giải với vị trí thứ hai giải hạng hai. 12 năm sau khi bị xuống hạng, Manchester United đã giành lại được vị trí của mình trong nhóm đầu.

Để chào mừng chiến thắng trở lại giải hạng nhất, Mangnall đã ký hợp đồng với Billy Meredith từ đối thủ kình định cùng thành phố Manchester City. Còn được đặt biệt danh là Phù thuỷ Xứ Uên, Meredith đã từng dính vào một vụ sì-căng-đan bán độ tại Manchester City và bị đưa ra bán đấu giá cùng với 17 cầu thủ khác. Mangnall nhanh chóng quyết định và đã có được chữ ký của Meredith trước khi cuộc đấu giá bắt đầu

Sự gia nhập của cầu thủ chạy cánh này đã mang lại cảm hứng cho toàn đội - Meredith đã kiến thiết vô số bàn thắng cho Sandy Turnbull trong mùa giải1907/08 khi Manchester United đoạt chức Vô địch Giải bóng đá Anh (Football League Championship) lần đầu tiên.

Danh hiệu thứ ba được bổ sung vào bảng danh dự của câu lạc bộ là Cúp FA, tại cuối mùa giải khốc liệt năm 1909. Manchester United đánh bại Bristol City 1-0 trong trận chung kết với bàn thắng của Sandy Turnbull.

Là nhà vô địch, năm 1908 Manchester United đã chơi trận đấu tranh FA Charity Shield lần đầu tiên trong lịch sử của mình. Họ đã đánh bại đội đoạt cúp FA, Queen Park Rangers với tỷ số 4-0 nhờ vào một cú hat-trick của cầu thủ cùng họ với Sandy, Jimmy Turnbull.

Và như vậy chương đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ đã kết thúc trong tiếng tăm lừng lẫy, hứa hẹn nhiều thành tích hơn nữa trong giai đoạn tiếp theo, trong đó có việc chuyển sang một sân vận động mới, một thánh địa bất diệt đã ra đời – Old Trafford.

Thành tích

Danh hiệu chính thức
Quốc gia
55 danh hiệu


Vô địch Anh: 20*(kỉ lục quốc gia)
  • 1908, 1911, 1952, 1956, 1957, 1965, 1967, 1993, 1994, 1996
  • 1997, 1999, 2000, 2001, 2003, 2007, 2008, 2009, 2011, 2013

 Cúp FA: 11*(kỉ lục quốc gia)

  • 1909, 1948, 1963, 1977, 1983, 1985, 1990, 1994, 1996, 1999
  • 2004

 Cúp Liên đoàn bóng đá Anh: 4

  • 1992, 2006, 2009, 2010

 Siêu cúp Anh: 20*(kỉ lục quốc gia)

  • 1908, 1911, 1952, 1956, 1957, 1965*, 1967*, 1977*, 1983, 1990*
  • 1993, 1994, 1996, 1997, 2003, 2007, 2008, 2010, 2011, 2013
                   (* đồng đoạt cúp)

Giải hạng nhất Anh: 2

  • 1936, 1975

Đội thể thao xuất sắc nhất trong năm của BBC Sports: 2

  • 1968 & 1999

Quốc tế
7 danh hiệu

 UEFA Champions League/Cúp C1: 3

  • 1967-68, 4-1 (thắng S.L. Benfica)
  • 1998-99, 2-1 (thắng FC Bayern München)
  • 2007-08, 1-1 (6-5) (thắng Chelsea FC)

Á quân 2008-2009 0-2 (thua Barcelona) Á quân 2010-2011 1-3 (thua Barcelona)

 UEFA Cup Winners' Cup/Cúp C2: 1

  • 1991

Cúp Liên lục địa: 1

  • 1999

FIFA Club World Cup.svg Cúp vô địch thế giới các câu lạc bộ: 1

  • 2008 (thắng LDU Quito 1-0)

UEFA Super Cup/Siêu cúp bóng đá châu Âu: 1

  • 1991


(*)Tính đến 12/08/2013. Theo wikipedia

Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu

Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu (tiếng Anh: European Cup hoặc UEFA Champions League; tên thường gọi ở Việt Nam: Cúp C1) là giải bóng đá hàng năm của Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) dành cho các câu lạc bộ vô địch quốc gia hay xếp hạng hai, ba, tư ở một số giải vô địch quốc gia mạnh. Nhà vô địch đầu tiên của giải đấu là Real Madrid sau khi đánh bại Stade de Reims ở trận chung kết.

Đương kim vô địch của giải là Real Madrid sau khi đánh bại Atletico Madrid với tỉ số 4-1 trên Estádio da Luz, Lisbon.

Bên cạnh đó, Liên đoàn bóng đá châu Âu cũng tổ chức Cúp các đội nữ vô địch bóng đá quốc gia châu Âu (UEFA Women's Champions League)

Lịch sử
Năm 1954, Gabrief Hanot - của báo L'Equipe - đã đề xuất một giải thi đấu giữa các đội vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu. Tháng 1 năm 1955, báo L'Equipe đã gửi bản dự thảo "European Cup" đến nhiều câu lạc bộ bóng đá. Ngày 2 tháng 4 năm 1955, 16 đại diện các câu lạc bộ đã thảo luận bản dự thảo này và thông qua sau 3 giờ đồng hồ.

Trận đấu đầu tiên đã diễn ra ngày 4 tháng 9 năm 1955 tại Lisbon (Bồ Đào Nha) giữa Sporting Lisbon và FK Partizan (Nam Tư), kết quả hòa 3-3. Và đội vô địch đầu tiên là Real Madrid (giải có 16 đội tham dự).

Từ mùa bóng 1992/1993, giải được đổi tên thành "UEFA Champions League". Và đến mùa bóng 1997/1998, có một sự thay đổi lớn trong điều lệ giải, ngoài các đội vô địch quốc gia, các đội có thứ hạng cao trong mỗi giải vô địch (tùy theo mỗi quốc gia) cũng có quyền tham dự. Mùa bóng năm 2005/2006 và 2006/2007, 3 quốc gia Tây Ban Nha, Anh và Ý (từ mùa bóng 2013-2014 Ý chỉ còn 3 đội tham dự, vì Đức đã lấy mất một xuất của Ý), được quyền cử 4 đội tham gia.

Chiếc cúp

Chiếc Cup UEFA Champions League
Cúp cao 74 cm, nặng 8 kg và đắt giá nhất khoảng 200.000 Franc. Đội đoạt cúp còn được nhận 20 Huy chương vàng và một phiên bản cúp, đồng thời có quyền giữ chiếc cúp thật trong vòng một năm trước khi trao lại cho UEFA "trong tình trạng nguyên xi" (nếu hư hại sẽ bị phạt nặng), một tháng trước trận chung kết lần sau.

Nếu 3 lần liên tiếp đoạt chức vô địch, hoặc 5 lần khác nhau, đội có quyền sở hữu vĩnh viễn chiếc cúp và lúc này UEFA phải làm một chiếc cúp khác hoàn toàn giống hệt. Tính tới thời điểm hiện tại, có 5 câu lạc bộ có được vinh dự này là: Real Madrid (10 lần vô địch); A.C. Milan (7 lần); FC Bayern München (5 lần, trong đó 3 lần liên tiếp); Liverpool FC (5 lần); Ajax Amsterdam (4 lần, trong đó 3 lần liên tiếp);

8 ngôi sao trên biểu tượng quả bóng của Cúp C1 (UEFA Champions League) là biểu tượng cho 8 đội bóng từng bảo vệ thành công chức vô địch (Real Madrid, SL Benfica, Inter Milan, Ajax Amsterdam, Bayern Munchen, Liverpool, Nottingham Forest, A.C. Milan).

Quy định hiện nay

Logo của giải đấu được thể hiện ở trung tâm của sân trước mỗi trận đấu

  • Vòng sơ loại đầu tiên: gồm 6 đội vô địch quốc gia các nước được xếp hạng từ 48-53.
  • Vòng sơ loại thứ nhì: gồm 34 đội [31 đội vô địch quốc gia các nước được xếp hạng từ 16-47(ngoại trừ Liechtenstein) và 3 đội thắng ở vòng sơ loại đầu tiên]
  • Vòng sơ loại thứ ba: gồm 32 đội được chia thành 2 nhóm:

              -Nhóm các đội vô địch quốc gia:gồm 20 đội bóng (3 đội vô địch quốc gia các nước được xếp                       hạng từ 13-15 và 17 đội thắng từ vòng loại thứ nhì)
               -Nhóm các đội không vô địch quốc gia:gồm 8 đội á quân quốc gia các nước được xếp hạng từ 8-                  15

  • Vòng Play-off:gồm 20 đội bóng được chia làm 2 nhóm

                 - Nhóm các đội vô địch quốc gia:gồm 10 đội chiến thắng ở vòng sơ loại thứ 3 trong nhóm các                       đội vô địch quốc gia
                  - Nhóm các đội không vô địch quốc gia:gồm 10 đội (1 đội á quân của quốc gia được xếp hạng                      thứ 7, 3 đội xếp thứ 3 quốc gia các nước được xếp hạng từ 4-6, 3 đội thứ đứng 4 quốc gia các                    nước được xếp hạng từ 1-3 và 4 đội giành chiến thắng vòng sơ loại thứ 3 trong nhóm các đội                        không vô địch quốc gia)

  • Vòng đấu bảng: gồm 32 đội, chia làm 8 bảng (4 đội/bảng):Nhà đương kim vô địch, 12 đội vô địch quốc gia các nước được xếp hạng từ 1-12, 6 đội hạng nhì quốc gia các nước được xếp hạng từ 1-6, 3 đội hạng ba quốc gia các nước được xếp hạng từ 1-3 và 10 đội chiến thắng ở vòng Play-off

Sau khi thi đấu vòng tròn, hai đội đứng đầu mỗi bảng sẽ được vào vòng sau.

  • Các đội bị loại khi xếp hạng thứ 3 tại vòng bảng được chuyển sang thi đấu từ vòng 1 Europe League.
  • Vòng 1/8:(các đội nhì bảng gặp các đội đầu bảng, các đội nhì bảng đá sân nhà trước): các CLB cùng một liên đoàn cũng như từng gặp nhau tại vòng bảng thứ nhất không chung bảng.
  • Vòng tứ kết: Bốc thăm phân cặp đấu lượt đi và về.
  • Vòng bán kết: bốc thăm phân cặp đấu lượt đi và về.
  • Chung kết: đấu 1 trận duy nhất trên sân trung lập. Nếu hòa đá 2 hiệp phụ.
  • Tại vòng 1/8, tứ kết và bán kết nếu sau 2 lượt tổng tỷ số bằng nhau(số bàn thắng trên sân khách của 2 đội bằng nhau, nếu không đội nào có số bàn thắng trên sân khách nhiều hơn sẽ dành quyền đi tiếp) sẽ đá hiệp phụ cổ điển (không tính bàn thắng vàng hay bạc), nếu vẫn hòa sẽ đá luân lưu xác định đội thắng thua.

Xếp hạng vòng bảng
Đội thắng được 3 điểm, hòa 1 điểm, thua 0 điểm. Trong trường hợp có hai hay nhiều đội bằng điểm nhau sau khi vòng đấu bảng kết thúc, việc phân định ngôi thứ sẽ dựa trên các tiêu chuẩn sau:

- Giành được nhiều điểm hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Có hiệu số bàn thắng bại cao hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Ghi được nhiều bàn thắng trên sân của đối phương hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Có hiệu số bàn thắng bại của tất cả các trận đấu trong bảng cao hơn.
- Ghi được nhiều bàn thắng hơn trong tất cả các trận đấu trong bảng.
- Hệ số điểm của quốc gia vào thời điểm đầu mùa bóng (Hệ số này do UEFA thiết lập và xếp hạng).

Tiền thưởng

Các vị nguyên thủ G8 tạm nghỉ trong cuộc họp thượng đỉnh để theo dõi trận chung kết năm 2012, tại Trại David, Mỹ, 19-5-2012: Cameron, Obama, Merkel, Barroso, Hollande và những người khác.
Đến mùa giải 2012–13, UEFA trao 2,1 triệu € cho mỗi đội tham dự vòng loại. Với đội lọt vào vòng bảng, họ sẽ nhận thêm 8,6 triệu € từ UEFA. Đội thắng trong 1 trận vòng bảng nhận thêm 1 triệu € và nếu hòa nhận thêm 500.000 €. Đối với vòng 16 đội, UEFA thưởng cho mỗi đội 3,5 triệu €, và đối với vòng tứ kết mỗi đội nhận thêm 3,9 triệu €. Mỗi đội trong bốn đội vào bán kết nhận 4,9 triệu €, và đội Á quân được thưởng 6,5 triệu €. Đội vô địch được UEFA thưởng 10,5 triệu €.[1]

Vòng đá loại: €2.100.000
Tiền thưởng chung cho mỗi đội vòng bảng: €8.600.000
Đội thắng trong 1 trận vòng bảng: €1.000.000
Đội hòa trong 1 trận vòng bảng: €500.000
Vòng 16 đội: €3.500.000
Tứ kết: €3.900.000
Bán kết: €4.900.000
Á quân: €6.500.000
Đội vô địch: €10.500.000
Doanh thu và lợi nhuận của UEFA Champions League đến từ quảng cáo, vé trận đấu... cũng như bản quyền truyền hình tại mỗi quốc gia sẽ được dùng để chia thưởng cho các CLB cũng như liên đoàn các quốc gia có CLB tham dự. Mùa 2010–11, Manchester United, tuy thua trận chung kết, nhưng tổng cộng họ kiếm được 53,2 triệu € trong đó có 27,3 triệu € tiền thưởng từ UEFA, so với tổng cộng 51,0 triệu € mà Barcelona kiếm được, với chức vô địch và tiền thưởng là 30,7 triệu €.[2]

Đội FC Bayern München mùa 2012-2013 với 4 trận thắng và 1 trận hòa vòng bảng cùng chức vô địch nhận được tổng cộng 38 triệu € từ UEFA.

UEFA (10 tháng 8, 2012) cũng ước tính doanh thu từ UEFA Champions League và UEFA Super Cup là 1,34 tỷ €.
Theo wikipedia

Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu

Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu (tiếng Anh: UEFA Cup Winners' Cup; tên thường gọi: Cúp C2) là giải bóng đá hàng năm do Liên đoàn bóng đá châu Âu tổ chức cho các câu lạc bộ vô địch cúp quốc gia ở châu Âu. Giải tổ chức từ năm 1960 và sáp nhập vào Cúp UEFA năm 1998...

Cúp UEFA Europa League

Cúp UEFA Europa League (tiếng Anh: UEFA Europa League; tên cũ: Cúp UEFA; tên thường gọi ở Việt Nam: Cúp C3) là giải bóng đá hàng năm do Liên đoàn bóng đá châu Âu tổ chức cho các câu lạc bộ châu Âu đoạt thứ hạng cao trong các giải vô địch quốc gia nhưng không giành quyền tham dự cúp UEFA Champions League. Kể từ khi giải đấu đổi tên thành UEFA Europa League thì chưa có đội bóng nào bảo vệ thành công chức vô địch. Từ mùa giai 2014-15, đội vô địch được tham dự vòng bảng Champions League năm sau.

Lịch sử
Ý tưởng thành lập giải đấu này của 3 người gồm Sir Stanlay Rous (người Anh), Ernst Thornmen (người Thuỵ Sỹ) và Ottorino Barrasi (người Ý). Ngày 18 tháng 4 năm 1955, Cúp các hội chợ liên thành phố (Inter-Cities Fairs Cup) chính thức được tổ chức với 10 đội bóng của 10 thành phố: Barcelona (Tây Ban Nha), Basel và Lausanne (Thuỵ Sỹ), London và Birmingham (Anh), Copenhagen (Đan Mạch), Frankfurt (Tây Đức), Leipzig (Đông Đức), Milan (Ý) và Zagreb (Croatia). Giải đầu tiên kéo dài trong 3 năm (1955 - 1958) và đội đoạt cúp là Barcelona (các cầu thủ đều của câu lạc bộ FC Barcelona. Giải lần thứ 2 kéo dài trong 2 năm (1958 - 1960) với 16 câu lạc bộ chứ không phải là đội tuyển các thành phố. Các giải sau được tổ chức đều đặn hàng năm. Đến mùa bóng 1971-72, giải đổi tên thành Cúp UEFA.

Từ mùa bóng 1999-00, hai cúp chiếc C2 và C3 được sáp nhập làm một và vẫn giữ tên là Cúp UEFA, khi đó, đội đoạt các cúp trong nước sẽ giành quyền tham dự giải đấu này. Thể thức của giải cũng được thay đổi như áp dụng thể thức đấu bảng (từ năm 2004); các đội bị loại ở vòng loại thứ ba và 8 đội xếp thứ 3 ở vòng đấu bảng UEFA Champions League được chuyển sang thi đấu; các đội bóng giành cúp Liên đoàn cũng giành quyền tham dự.

Từ năm 1958 đến 1997, các trận chung kết được tổ chức 2 lượt đi và về (trừ các năm 1964 và 1965). Từ mùa giải 1997-98, trận tranh cúp vô địch chỉ diễn ra 1 lượt trên sân vận động đã chọn trước.

Mùa bóng 2009-2010, UEFA tăng số lượng câu lạc bộ tham dự vòng bảng lên 48 đội và đổi tên giải đấu thành UEFA Europa League.

Chiếc cúp vô địch
Chiếc cúp UEFA được làm bằng bạc, cao 65 cm, nặng 15 kg. Đế của cúp làm bằng đá màu vàng. Chiếc cúp được thiết kế và chế tạo tại Milan, Ý.
Theo wikipedia

Liên đoàn bóng đá châu Âu

Liên đoàn bóng đá châu Âu (tiếng Anh: Union of European Football Association; viết tắt: UEFA) được thành lập ngày 15 tháng 6 năm 1954 tại Basel, Thụy Sĩ. Chủ tịch hiện tại của Liên đoàn là Michel Platini.

Các giải đấu
Cấp đội tuyển

  • Giải vô địch bóng đá châu Âu
  • Giải vô địch bóng đá U21 châu Âu
  • Giải vô địch bóng đá U19 châu Âu
  • Giải vô địch bóng đá U17 châu Âu
  • Giải vô địch bóng đá trong nhà châu Âu
  • Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu

Cấp câu lạc bộ

  • Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu
  • Cúp các đội nữ vô địch bóng đá quốc gia châu Âu
  • Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu
  • Cúp UEFA
  • Siêu cúp bóng đá châu Âu
  • Cúp Intertoto

Theo wikipedia

Giải bóng đá Ngoại hạng Anh

Giải bóng đá ngoại hạng Anh (tiếng Anh: Premier League) là giải đấu cao nhất của các câu lạc bộ bóng đá Anh. Giải bóng đá ngoại hạng Anh tồn tại như một công ty với 20 đội bóng thành viên đóng vai trò như những cổ đông. Mùa giải bắt đầu từ tháng Tám đến tháng Năm, với 38 vòng đấu và tổng cộng 380 trận đấu. Hầu hết các trận đấu diễn ra vào thứ Bảy và Chủ Nhật, và chỉ có một vài trận đấu diễn ra vào giữa tuần. Hiện nay giải đấu được tài trợ bởi ngân hàng Barclays và do đó có tên chính thức là Barclays Premier League. Bên ngoài nước Anh, nó thường được biết đến với tên gọi English Premier League.

Bài hát chính thức của giải được đặt tên là Fire, sáng tác bởi ban nhạc Kasabian.

Giải bóng đá ngoại hạng Anh là giải đấu nhận được sự chú ý nhiều nhất trên thế giới với hơn 210 quốc gia xin đăng ký bản quyền phát sóng. Giải đấu này còn là một thể loại giải đấu mẫu trên thế giới, vì dù ở bất kỳ thứ hạng nào, thì các cổ động viên vẫn luôn đến sân cổ vũ cho đội họ yêu thích, một điều hiếm nước nào có được.

Danh sách các đội vô địch
Giải hạng nhất (1888-1992)
1889 - Preston North End
1890 - Preston North End
1891 - Everton
1892 - Sunderland
1893 - Sunderland
1894 - Aston Villa
1895 - Sunderland
1896 - Aston Villa
1897 - Aston Villa
1898 - Sheffield United
1899 - Aston Villa
1900 - Aston Villa
1901 - Liverpool
1902 - Sunderland
1903 - Sheffield Wednesday
1904 - Sheffield Wednesday
1905 - Newcastle United
1906 - Liverpool
1907 - Newcastle United
1908 - Manchester United
1909 - Newcastle United
1910 - Aston Villa
1911 - Manchester United
1912 - Blackburn Rovers
1913 - Sunderland
1914 - Blackburn Rovers
1915 - Everton
1916-1919 - chiến tranh thế giới lần thứ nhất
1920 - West Bromwich Albion
1921 - Burnley
1922 - Liverpool
1923 - Liverpool
1924 - Huddersfield Town
1925 - Huddersfield Town
1926 - Huddersfield Town
1927 - Newcastle United
1928 - Everton
1929 - Sheffield Wednesday
1930 - Sheffield Wednesday
1931 - Arsenal
1932 - Everton
1933 - Arsenal
1934 - Arsenal
1935 - Arsenal 
1936 - Sunderland
1937 - Manchester City
1938 - Arsenal
1939 - Everton
1940-1946 - chiến tranh thế giới lần thứ hai
1947 - Liverpool
1948 - Arsenal
1949 - Portsmouth
1950 - Portsmouth
1951 - Tottenham Hotspur
1952 - Manchester United
1953 - Arsenal
1954 - Wolverhampton Wanderers
1955 - Chelsea
1956 - Manchester United
1957 - Manchester United
1958 - Wolverhampton Wanderers
1959 - Wolverhampton Wanderers
1960 - Burnley
1961 - Tottenham Hotspur
1962 - Ipswich Town
1963 - Everton
1964 - Liverpool
1965 - Manchester United
1966 - Liverpool
1967 - Manchester United
1968 - Manchester City
1969 - Leeds United
1970 - Everton
1971 - Arsenal
1972 - Derby County
1973 - Liverpool
1974 - Leeds United
1975 - Derby County
1976 - Liverpool
1977 - Liverpool
1978 - Nottingham Forest
1979 - Liverpool
1980 - Liverpool
1981 - Aston Villa
1982 - Liverpool
1983 - Liverpool
1984 - Liverpool
1985 - Everton
1986 - Liverpool
1987 - Everton
1988 - Liverpool
1989 - Arsenal
1990 - Liverpool
1991 - Arsenal
1992 - Leeds United
 
Giải ngoại hạng (1993-nay)
1992-93 - Manchester United
1993-94 - Manchester United
1994-95 - Blackburn Rovers
1995-96 - Manchester United
1996-97 - Manchester United
1997-98 - Arsenal
1998-99 - Manchester United
1999-2000 - Manchester United
2000-01 - Manchester United
2001-02 - Arsenal
2002-03 - Manchester United
 
2003-04 - Arsenal
2004-05 - Chelsea
2005-06 - Chelsea
2006-07 - Manchester United
2007-08 - Manchester United
2008-09 - Manchester United
2009-10 - Chelsea
2010-11 - Manchester United
2011-12 - Manchester City
2012-13 - Manchester United
2013-14 - Manchester City
 
Tổng số lần vô địch (Bắt đầu từ năm 1889-nay)
20 lần: Manchester United
18 lần: Liverpool
13 lần: Arsenal
9 lần: Everton
7 lần: Aston Villa
6 lần: Sunderland
4 lần: Newcastle United, Sheffield Wednesday, Chelsea
3 lần: Huddersfield Town, Wolverhampton Wanderers, Leeds United, Blackburn Rovers, Manchester City
2 lần: Preston North End, Portsmouth, Burnley, Tottenham Hotspur, Derby County
1 lần: Sheffield United, West Bromwich Albion, Ipswich Town, Nottingham Forest
3 lần liên tiếp:
Huddersfield Town: 1924 - 1926
Arsenal: 1933 - 1935
Liverpool: 1982 – 1984
Manchester United: 1999 – 2001, 2007 – 2009
Số lần vô địch từ khi giải có tên Giải bóng đá ngoại hạng Anh (1993-nay)
13 lần: Manchester United
3 lần: Arsenal, Chelsea
2 lần: Manchester City
1 lần: Blackburn Rovers
Theo wikipedia

Chelsea F.C

Câu lạc bộ bóng đá Chelsea (Chelsea Football Club), đôi khi được gọi ngắn là Chelsea, là một câu lạc bộ bóng đá Anh,có trụ sở tại Stamford Bridge ở phía tây thủ đô London. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1905 hiện đang chơi ở Premier League, và trong lịch sử chủ yếu họ chỉ chơi ở giải đấu cao nhất nước Anh. Sân nhà của họ là Stamford Bridge có 41,837 chỗ ngồi, nơi họ đã chơi bóng kể từ khi được thành lập.

Chelsea có mùa giải thành công đầu tiên vào mùa 1954–55, nơi họ đã vô địch championship, và vô địch nhiều giải đấu khác nhau trong thập niên 1960, 1970, 1990 và 2000. Hai thập kỷ qua là thời gian thi đấu thành công nhất của Chelsea, vô địch 15 danh hiệu lớn kể từ năm 1997. Trong nước, Chelsea đã vô địch bốn Premier League, bảy Cúp FA, bốn Cúp Liên đoàn và bốn Siêu cúp Anh, họ cũng đã từng hai lần vô địch Cúp UEFA, một siêu cúp châu Âu, một UEFA Europa League và một UEFA Champions League. Chelsea là câu lạc bộ đầu tiên ở Luân Đôn vô địch UEFA Champions League, một trong bốn đội, và là câu lạc bộ đầu tiên ở Vương Quốc Anh, đã từng vô địch cả ba giải đấu danh giá của UEFA. Chelsea cũng là câu lạc bộ đầu tiên vô địch cúp châu Âu trong hai mùa liên tiếp.

Trang phục truyền thống của Chelsea là áo và quần short màu xanh đậm và tất màu trắng. Logo của câu lạc bộ đã được đổi nhiều lần để mang lại thương hiệu và hình ảnh mới, logo hiện tại là một con sư tử nắm giữ một cây gậy. Sức chúa của sân nhà Chelsea cho mùa giải 2012-13 là 41,462, lớn thứ 6 ở Premier League. Từ tháng 6 năm 2003, Chelsea có chủ sỡ hữu là tỷ phú người Nga Roman Abramovich.[6] Tháng 4 năm 2013 Chelsea được tờ báo Forbes xếp vào nhóm 7 câu lạc bộ đắt giá nhất thế giới, với 588 triệu bảng Anh (901 triệu $), và lời 18% từ mùa giải năm ngoái.

Lịch sử
Ngày 10 tháng 3 năm 1905, một nhóm thanh niên yêu bóng đá tại Quận Chelsea - một quận phía tây London - đã tập hợp nhau tại quán rượu Rising Sun (nay đổi tên thành Butcher's Hook) trên đường Fulham Road, quyết định thành lập đội bóng mang tên Chelsea - cái tên không hề thay đổi sau 100 năm. Vì có trang phục truyền thống là màu xanh, nên đội đã có một tên gọi thân mật là "The Blues".

Những ngày đầu thành lập
Đội hình năm 1905
Ngày 29 tháng 5 năm 1905, Chelsea đã được Liên đoàn bóng đá Anh lựa chọn tham dự giải hạng Nhì. Ngay từ những ngày đầu thành lập, Chelsea đã chọn cho mình một lối chơi bóng đẹp mắt, phóng khoáng, với lối chơi này họ đã có những kết quả ban đầu khá tốt đẹp. Mùa giải đầu tiên, Chelsea xếp thứ 3 chung cuộc với 22 trận thắng, 9 trận hòa và chỉ thua 7 trận, thậm chí còn ghi được tới 90 bàn và chỉ để lọt lưới 37 bàn.

Mùa giải sau đó, Chelsea còn thi đấu thuyết phục hơn khi họ xếp thứ 2 và thắng tới 26 trận và hòa 5 trận. Với kết quả này Chelsea đã chính thức được lên hạng Nhất - giải đấu cao nhất nước Anh khi đó...

Màu sắc và biểu tượng : 
Các cầu thủ Chelsea luôn luôn mặc áo sơ mi màu xanh,mặc dù ban đầu áo của họ màu xanh nhạt,được mặc với quần màu trắng và tất màu xanh hoặc đen.[17] Chiếc áo màu xanh nhạt sau đó đã được thay thế bởi chiếc áo màu xanh đậm vào năm 1912.Vào thập niên 1960,huấn luyện viên của Chelsea Tommy Docherty thay đổi bộ đồ một lần nữa,đổi thành quần short xanh(mà bây giờ vẫn dùng) và tất trắng,ông tin rằng nó làm cho màu sắc của CLB đặc biệt hơn.Bộ đồ này được sử dụng lần đầu tiên vào mùa giải 1944-1945.

Áo đấu sân khách truyền thống của Chelsea là màu vàng hoặc trắng với đường viền màu xanh,nhưng họ cũng đã có 1 số kiểu khác hơn.Bộ đồ thi đấu sân khách đầu tiên bao gồm sọc trắng đen,lấy cảm hứng từ bộ độ của Inter Milan.Bộ áo đấu sân khách khác là một bộ đồ màu xanh lá cây vào thập niên 1980,trang phục đỏ trắng khi gần vào thập niên 90,hay bộ đồ màu Than chì ở giữa những năm 90.

Sân vận động: Stamford Birdge

Các kỉ lục của đội bóng
Thống kê
Cầu thủ có số lần khoác áo CLB nhiều nhất: Ron Harris với 795 trận
Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho CLB: Frank Lampard (203 bàn/ 606 trận)
Số trận thắng trong 1 mùa giải: 29
Kỷ lục điểm số cao nhất trong 1 mùa giải ngoại hạng Anh: 95
Kỷ lục số bàn thắng cao nhất trong giải bóng đá ngoại hạng Anh (kể từ khi đổi tên):103 bàn thắng (mùa giải 2009-2010)
Kỷ lục số bàn thua ít nhất trong 1 mùa giải: 15
Kỷ lục chuỗi trận bất bại trên sân nhà: 86
Chuỗi trận liên tiếp không bị thủng lưới: 10
Trận thắng đậm nhất: 21-0 (đá với Jeunesse Hautcharage trận vòng 1 Cúp các câu lạc bộ đoạt cúp bóng đá quốc gia châu Âu năm 1971-1972)
Đội cuối cùng giành cúp FA trên sân Wembley cũ (2000), đồng thời cũng là đội đầu tiên đoạt được cúp này trên sân Wembley mới (2007).
Kỉ lục bất bại trên sân nhà
Đây có thể coi là kỉ lục đáng tự hào nhất của Chelsea. Kỉ lục kéo dài suốt 86 trận (chỉ tính riêng trong giải Premier League) trong khoảng thời gian 4 năm và 8 tháng (tổng cộng 1709 ngày). Trong khoảng thời gian đó, Chelsea thi đấu khá tốt và không để thua một trận nào trên sân nhà Stamford Bridge.

Kỉ lục bắt đầu được tính sau trận thua 1-2 của Chelsea trước Arsenal vào ngày 21 tháng 02 năm 2004 với các bàn thắng của Eidur Gudjohnsen (giây thứ 27) bên phía Chelsea, Patrick Vieira (15') và Edu (21') bên phía Arsenal. Rất lâu sau đó, đến ngày 26 tháng 10 năm 2008 mới có một đội bóng có thể hạ gục Chelsea sân nhà của The Blue, đó là Liverpool với tỉ số 0-1. Bàn thắng duy nhất của trận đấu này là của Xabi Alonso, được ghi ở phút thứ 10 của trận đấu. Alonso đã sút bóng bằng chân trái từ ngoài vòng cấm địa, bóng đi không hiểm nhưng lại đập vào người của hậu vệ Jose Bosingwa bên phía Chelsea khiến bóng đổi hướng, đi thẳng vào khung thành trong khi thủ môn Petr Cech đã đổ người sang bên phải. Bàn thắng có phần may mắn đó đã chấm dứt kỉ lục đáng tự hào 86 trận bất bại trên sân nhà của Chelsea. Cho đến nay, ở Premier League, vẫn chưa có một đội bóng nào có thể xô đổ được kỉ lục đó.

Thành tích
Trong nước
Premier league trophy icon.png Giải bóng đá Ngoại hạng Anh: 4
1955, 2005, 2006, 2010
Giải Hạng Nhất Anh: 2
1984, 1989
FA Cup.png Cúp FA: 7
1970, 1997, 2000, 2007, 2009, 2010, 2012
Carling.png Cúp Liên đoàn: 4
1965, 1998, 2005, 2007
CommunityShield.png Siêu cúp bóng đá Anh: 4
1955, 2000, 2005, 2009
Full Members Cup: 2
1986, 1990
Châu Âu
Coppacampioni.png UEFA Champions League/Cúp C1
Vô địch (1): 2011–12
Coppacoppe.png UEFA Cup Winners' Cup/Cúp C2
Vô địch (2): 1970–71, 1997–98
UEFA Cup (adjusted).png UEFA Europa League/Cúp C3
Vô địch (1): 2012–13
Supercoppaeuropea.png UEFA Super Cup/Siêu cúp bóng đá châu Âu
Vô địch (1): 1998
Theo Wikipedia

Tottenham Hotspur F.C.

Câu lạc bộ bóng đá Tottenham Hotspur (tiếng Anh: Tottenham Hotspur Football Club) là một câu lạc bộ bóng đá ở London, thủ đô Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Câu lạc bộ còn có các tên gọi khác như Spurs, The Spurs, Tottenham hay Lilywhites. Sân nhà của câu lạc bộ là sân vận động White Hart Lane.

Thành tích:
Giải vô địch quốc gia: 2
1951, 1961
Cúp FA: 8
1901, 1921, 1961, 1962, 1967, 1981, 1982 & 1991
Cúp Liên đoàn bóng đá Anh: 4
1971, 1973, 1999, 2008
Siêu cúp bóng đá Anh: 7
1921, 1951, 1961, 1962, 1967, 1981*, 1991*
(* đồng đoạt cúp)
Coppacoppe.png UEFA Cup Winners' Cup/Cúp C2: 1
1963
UEFA Cup (adjusted).png UEFA Cup/Cúp C3: 2
1972, 1984

Lịch sử:
Câu lạc bộ được thành lập năm 1882 với tên gọi Hotspur Football Club. Cái tên này có liên quan với tên của Sir Henry Percy (Sir Harry Hotspur). Tuy nhiên, để tránh sự nhầm lẫn với một câu lạc bộ khác (London Hotspur), câu lạc bộ đổi tên thành Tottenham Hotspur như hiện nay.

Tottenham Hotspur chuyển sang chuyên nghiệp cuối năm 1895. Năm 1899, Spurs chuyển đến địa điểm mới, nay chính là nơi đặt sân vận động White Hart Lane. Tháng 4 năm 1901, Tottenham vô địch cúp FA sau khi thắng Sheffield United (lượt đi: 2-2; lượt về: 3-1) và trở thành đội bóng đầu tiên không chơi tại giải vô địch quốc gia đoạt được cúp này.

Mùa giải 1909-10, Tottenham giành quyền lên hạng nhất nhưng không giành bật cứ danh hiệu nào cho đến năm 1920, năm họ đoạt chức vô địch giải hạng 2. Việc câu lạc bộ phải xuống hạng 2 mùa giải đó được cho là do sự bịp bợm khi Arsenal thay thế vị trí Tottenham mặc dù Arsenal chỉ đứng thứ 6 giải hạng 2 mùa giải trước.

Ngày 23 tháng 4, Tottenham giành cúp FA lần thứ 2 sau khi đá bại Wolverhampton Wanderers 1-0 tại sân vận động Stamford Bridge. Tuy nhiên, sau chiến thắng này, Tottenham phải trải qua một giai đoạn xuống dốc rồi phải chơi ở giải hạng 2 từ năm 1928 đến năm 1950.

Năm 1951, Tottenham trở thành câu lạc bộ đầu tiên vô địch 2 hạng đấu trong 2 năm liên tiếp (giải hạng 2: 1950; giải hạng nhất: 1951). Các cầu thủ nổi tiếng thời gian này là Alf Ramsey, Ronnie Burgess, Ronnie Burgess, Len Duquemin, Sonny Walters và Bill Nicholson.

Năm 1958, Bill Nicholson trở thành quản lý mới và mở ra một thời kỳ huy hoàng cho câu lạc bộ. Các năm sau đó, Tottenham liên tục gặt hái nhiều danh hiệu. Đầu tiên là cú đúp vô địch Anh và cúp FA năm 1961. Năm sau tiếp tục đoạt cúp FA và vào bán kết cúp C1. Và giành cúp C2 năm 1963. Các cầu thủ nổi tiếng khi đó là Danny Blanchflower, John White, David Mackay, Cliff Jones và Jimmy Greaves.

Bill Nicholson một lần đoạt cúp FA năm 1967 với nhiều cầu thủ mới như Alan Gilzean, Mike England, Alan Mullery, Terry Venables, Joe Kinnear và Cyril Knowles. Mặc dù đoạt thêm 1 cúp UEFA năm 1972, 2 cúp Liên đoàn các năm 1971 và 1973 và lọt vào trận chung kết cúp UEFA năm 1974, nhưng Nicholson phải từ chức vì thành tích khởi đầu kém cỏi của mùa giải 1974-75.

Những năm đầu thập niên 1980, dưới sự dẫn dắt của Keith Burkinshaw, Tottenham giành chiếc cúp FA thứ 6 (1981) và 7 (1982) cùng với chiếc cúp UEFA thứ 2 (1984). Các cầu thủ quan trọng gồm Steve Archibald, Garth Crooks, Glenn Hoddle, Osvaldo Ardiles và Steve Perryman. Trong đó Steve Perryman đã chơi cho Spurs 655 ở giải vô địch trong 7 mùa bóng.

Từ đó đến cuối thế kỷ 20, Tottenham mới giành thêm 2 danh hiệu lớn gồm 1 cúp FA (1991) và 1 cúp Liên đoàn (1999). Các cầu thủ nổi tiếng đã chơi cho câu lạc bộ trong khoảng thời gian này có Paul Gascoigne, Gary Lineker, Jürgen Klinsmann, Gheorghe Popescu, Ilie Dumitrescu, Teddy Sheringham, Nick Barmby và Darren Anderton.
Theo Wikipedia

Cúp FA

Cúp FA (tiếng Anh: The Football Association Challenge Cup hay The FA Cup) là cúp bóng đá lâu đời nhất (từ năm 1871) và có nhiều đội tham dự nhất của nước Anh cũng như của thế giới (mùa giải 1998-1999 có 558 đội ở 10 hạng đấu).

Đương kim vô địch là câu lạc bộ Arsenal.

Tính đến năm 2014, câu lạc bộ Arsenal và Manchester United là đội đoạt nhiều cúp FA nhất (11 lần).

Số đội vô địch 3 lần liên tiếp là: Wanderers, Blackburn Rovers

Theo Wikipedia

Arsenal F.C

Câu lạc bộ bóng đá Arsenal (tiếng Anh: Arsenal Football Club, còn được gọi là The Arsenal hay The Gunners) là một trong những đội bóng thành công nhất trong lịch sử bóng đá Anh và có trụ sở ở phía bắc thủ đô Luân Đôn. Đến nay câu lạc bộ đã giành được 13 chức vô địch ở giải bóng đá cao nhất nước Anh và 11 chức vô địch cúp FA. Arsenal hiện đang giữ kỷ lục đội có số trận bất bại liên tiếp cao nhất Anh với 49 trận, và vô địch mùa giải với thành tích không thua trận nào.

Arsenal ra đời năm 1886 tại Woolwich, đông nam London và là câu lạc bộ đầu tiên của vùng đông nam nước Anh tham dự giải hạng nhất vào 1893.Năm 1913, câu lạc bộ chuyển lên phía bắc, lấy Highbury làm sân nhà. Họ giành được những danh hiệu lớn đầu tiên vào những năm 1930 với 5 chức vô địch quốc gia và 2 cúp FA. Sau một thời gian sa sút, Arsenal đã trở trở lại với cú đúp vô địch Quốc gia và cúp FA vào mùa bóng 1970-1971 đồng thời là câu lạc bộ thứ hai trong lịch sử bóng đá Anh đạt được thành tích này. Sau đó, phải đến thời của huấn luyện viên Arsene Wenger, Arsenal mới thực sự trở lại với vị thế của một đại gia của bóng đá Anh và Châu Âu với hai cú đúp nữa vào năm 1998 và 2002, thành tích vô địch giải bóng đá ngoại hạng Anh mùa 2003-2004 mà không thua một trận nào và năm 2006 đã trở thành đội bóng đầu tiên của thủ đô London lọt vào một trận chung kết Champions League. Arsenal là câu lạc bộ trụ lâu nhất ở giải đấu cao nhất của nước Anh: họ được thăng hạng lần cuối vào mùa giải 1919-1920 và kể từ đó chưa bao giờ để rớt hạng - đây là một kỷ lục vĩ đại nếu biết đội giữ vị trí thứ nhì là Everton F.C. chỉ bắt đầu chơi ở giải dấu cao nhất của nước Anh từ mùa 1954-1955 Arsenal là câu lạc bộ có rất nhiều trận Derby như Derby nước Anh với Manchester United, các trận Derby London và đặc biệt là trận Derby Bắc London với Tottenham Hotspur. Năm 2006, câu lạc bộ đã chuyển đến ngôi nhà mới, sân vận động Emirates tại Ashburton Grove, Holloway, cách sân Highbury không xa. Đội nữ Arsenal cũng là một đội bóng thành công trong lịch sử bóng đá nữ nước Anh. Năm 2013, Arsenal là câu lạc bộ bóng đá thứ tư có số tài sản lớn trên thế giới, với trên 1,3 tỷ USD.

Lịch sử :
Năm 1886, một nhóm công nhân của Royal Arsenal, nhà máy sản xuất đạn dược lớn tại Woolwich đã thành lập ra một đội bóng đá lấy tên là Dial Square[3]. Những sáng lập viên chính là David Danskin, Jack Humble, Fred Beardsley và Morris Bates. Eastern Wanderers được chọn làm đối thủ thử sức đầu tiên. Trận đấu diễn ra vào ngày 11 tháng 12 năm 1886 tại Millwall, trên một mảnh đất nhỏ, kết thúc với tỉ số 6-0 đậm đà nghiêng về Dial Square với Danskin làm đội trưởng.

Ngày 24 tháng 12 năm 1886, Dial Square được đổi tên là Royal Arsenal. Câu lạc bộ Nottingham Forest F.C. tài trợ cho đội những bộ đồng phục thi đấu đầu tiên, Plumstead Common được chọn làm sân nhà (năm 1888 chuyển sang sân Manor Field). Năm 1891, Royal Arsenal trở thành câu lạc bộ chuyên nghiệp và đổi tên thành Woolwich Arsenal vào năm 1893[4]. Cùng năm này, Woolwich Arsenal gia nhập giải chuyên nghiệp Football League, bắt đầu ở Giải hạng hai, thăng hạng nhất lần đầu năm 1904 dưới quyền huấn luyện viên Harry Bradshaw.

Năm 1910, công ty sở hữu câu lạc bộ lâm vào khó khăn và phá sản, nhưng đó cũng là lúc Henry Norris đến với câu lạc bộ[5]. Người đàn ông nhiều tham vọng này đã đánh dấu những bước ngoặt lớn trong lịch sử, điển hình là việc vượt sông Thames lên phía bắc, lấy Highbury làm sân nhà vào năm 1913, chính thức lấy tên câu lạc bộ là Arsenal[6]. Năm 1919, cũng nhờ những ảnh hưởng và công vận động của ông, Arsenal được thăng lên hạng nhất dù chỉ đứng thứ 5 tại Giải hạng hai.[7] Đây là sự khởi đầu cho mối mâu thuẫn truyền kiếp giữa Arsenal và người hàng xóm Tottenham Hotspur. Và kể từ khi được chơi ở giải đấu cao nhất của nước Anh, Arsenal là đội duy nhất chưa từng phải xuống chơi ở các giải đấu thấp hơn, tổng cộng Arsenal đã có 85 lần góp mặt ở đấu trường số 1 nước Anh (đã trừ khoảng thới gian bóng đá Anh bị gián đoạn do Chiến tranh Thế giới thứ Hai).

Năm 1925, Arsenal bước vào một kỷ nguyên vàng son với sự xuất hiện của huấn luyện viên huyền thoại Herbert Chapman. Tên tuổi ông lúc đó chẳng hề xa lạ, dưới sự dẫn dắt của ông, đội bóng Huddersfield Town đã có trong tay cúp FA năm 1922 và hai chiến thắng tại giải quốc gia (1923-24 và 1924-25). Những thay đổi mang tính cách mạng của ông về chiến thuật, phương pháp huấn luyện cũng như việc ký hợp đồng với những tài năng lớn Cliff Bastin, Alex James... đã liên tiếp mang chiến thắng đến với sân Highbury. Từ năm 1930 đến năm 1938, Arsenal đã 5 lần vô địch quốc gia và đoạt 2 cúp FA.[8] Nhờ ông, năm 1932, nhà ga xe điện ngầm Gillespie Road được đổi tên thành Arsenal, đó là trường hợp duy nhất một câu lạc bộ có nhà ga mang tên của chính câu lạc bộ.[9] Tuy nhiên Chapman không được chứng kiến tất cả những thành tích đó, ông mất vì chứng viêm phổi năm 1934.

Biểu trưng
Vào năm 1888, chỉ sau hai năm thành lập câu lạc bộ, Arsenal khi đó với cái tên là Royal Arsenal đã chọn cho mình biểu trưng đầu tiên, dựa vào chiếc biểu ngữ của vùng Woolwich. Chiếc biểu trưng này gồm 3 cột tượng trưng cho những khẩu pháo thần công. Ý nghĩa của những khẩu pháo bắt nguồn từ lịch sử quân sự của vùng ngoại vi Woolwich. Royal Arsenal, Royal Artillery Regiment và một vài bệnh viện quân sự khác – hiện vẫn còn nằm rải rác – xuất hiện khắp vùng[25].

Những khẩu pháo thần công thẳng đứng đã được thay thế bằng thiết kế mới – một khẩu thần công chĩa về phía đông. Đầu mùa giải 1925/26 The Gunners đã đổi biểu trưng thành hình khẩu pháo nhỏ hơn, chỉ về phía tây với dòng chữ khắc "The Gunners" bên cạnh.[25]

Biểu trưng khẩu pháo này vẫn xuất hiện trong những trận đấu của Arsenal và trong các tạp chí xuất bản trong 17 mùa giải. Nó thay đổi không đáng kể theo thời gian và cuối cùng dòng chữ đã biến mất nhưng mặc dù đã bị crest với dòng chữ Victoria Concordia Crescit "chiếm" mất vào năm 1949, nó vẫn còn là biểu tượng cơ bản của câu lạc bộ từ đó tới nay, là nét đặc trưng trên các sản phẩm hàng hóa và không thay đổi cho tới tận bây giờ

Thành tích
Cúp vô địch quốc gia: 13
Cúp FA: 11
Siêu cúp bóng đá Anh: 12
(* đồng đoạt cúp)
Coppacoppe.png UEFA Cup Winners' Cup/Cúp C2: 1
UEFA - Inter-Cities Fairs Cup.svg Cúp Inter-Cities Fairs/Cúp C3: 1
1970
Các cup khác
Emirates Cup: 3 lần

Theo wikipedia

Litecoin


Nếu Bitcoin là vàng thì Litecoin được ví như là bạc. Litecoin là loại tiền điện tử phổ biến thứ hai chỉ sau Bitcoin. Tại thời điểm này 1 Litecoin = $17 Đô La Mỹ và có giá thị trường khoảng 500 triệu đô. Litecoin được tạo ra bởi Charles Lee một lập trình viên từng làm việc cho Google và hiện giờ ông đang làm việc cho Coinbase, sàn giao dịch Bitcoin lớn nhất tại Mỹ. Charles Lee nói rằng ông chỉ mất một buổi tối để tạo ra Litecoin vì nền tảng của Litecoin rất giống Bitcoin cộng với một số tính năng vượt trội hơn như là:

  • Litecoin tìm 1 block nhanh hơn Bitcoin 4 lần vì thế giao dịch cũng được diễn ra nhanh hơn
  • Litecoin sử dụng Scrypt Hashing vì thế dễ dàng hơn cho các thợ đào nhỏ
  • Tổng số lượng Litecoin (84 triệu) sẽ nhiều hơn 4 lần so với Bitcoin (21 triệu)

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014

Brook

Brook là 1 bộ xương rất cao. Mặc dù không có da nhưng trên đầu vẫn có tóc. Quần áo tóc giày…. bên ngoài đều màu đen nhưng bên trong màu da cam.


Tên Latinh: Burukku
Tên tiếng Anh: Brook
Xuất hiện lần đầu tiên: Chapter 442 ; Episode 337
Xuất thân: Straw Hat Pirates; Rumbar Pirates (former)
Nghề nghiệp: Musician; Swordsman; Captain (former); Battle Convoy leader (former)
Biệt danh: “Gentleman Skeleton”; “Dead Bones”; “Humming Swordsman”; “Humming Brook” ; “Satan-Sama” ; “Soul King”
Người lồng tiếng JP: Yūichi Nagashima
Tuổi tác: 88 (debut) ; 90 (after timeskip)
Sinh nhật: April 3rd
Chiều cao: 2m 66cm (8’8½”)
Bounty: 33,000,000

Trái cây ác quỷ

Tên tiếng Nhật : Yomi Yomi no Mi
Tiếng Anh : Revive-Revive Fruit
Ý nghĩa : Hồi sinh
Hệ : Paramecia

Tính cách

Như các thành viên khác của SH , Brook có 1 phong cách riêng biệt . Luôn tự nhân mình là 1 gentle man và luôn hỏi xem đồ lót của các cô gái ( ko hiểu Oda nghĩ gì mà cho Brook cái câu này nhỉ ) .
Brook là 1 người kiên nhẫn . Vẫn ở nguyên trên tàu ma 13 năm và luôn chờ cơ hội lấy lại bóng .Anh ta cũng là 1 người rất vui tính , luôn đem chuyện mình la 1 bộ xương ra để đùa bất cứ lúc nào có thể và có 1 điệu cười : Yohoohohohoho

Là 1 người rất yêu âm nhac . Ta có thể thấy trước khi sắp chết anh ấy vẫn đánh đàn va chết trên bàn phím piano. Âm nhạc cũng được thể hiện qua đặc tính chiến đấu của Brook

Trước khi gặp nhóm SH Brook rất cô đơn nhưng từ khi gặp SH niềm vui mới trở lại với anh ta. Dù là 1 trong những hải tặc sống lâu nhất ( 88 tuổi rồi ) nhưng ta vẫn có thể thấy Brook tham gia vao các trò đùa nghịch của Luffy Ussop va Chopper như là trẻ con . Brook và con cá voi Laboon có 1 tình cảm đặc biệt với nhau. Laboon rất thích nghe nhạc của Brook . Brook thì tuy chỉ còn là bộ xương nhưng luon chăm sóc tóc của mình vì anh ấy sợ Laboon sẽ không nhân ra anh ấy nữa .

Tiểu sử

Brook trước ở trên thuyền của Yorky

Con thuyền của Yorky rất đông và vui vẻ . Chính nhóm hải tặc này là ban. của Laboon khi nó còn nhỏ . Họ đã để Laboon lại tiếp tuc phiêu lưu và hứa sẽ quay lại đón nó nhưng cuối cùng trong 1 trận chiến tất cả dều bị chết .
Lúc này năng lực hồi sinh của trái DV của Brook lúc này mới tác dụng nhưng do sương mù quá dày nên linh hồn của anh ko thể trở về được. Khi LinhHoonf nhập dược vào xác thì Brook của chúng ta đã la 1 bộ xương rồi .
Brook lưu giữ kí ức về ngày cuối cùng của ông cùng nhóm hải tặc Yorky trong 1 cái Dial cất trong hộp sọ và thường lấy ra xem lại , Brook lấy lại được bóng của mình nhờ trận chiến cùng SH trên Thriller Bark .

Năng lực và sức mạnh

Cây gậy chống của Brook chứa 1 thanh gươm biết đến như một shikomizue, mà anh ta có thể sử dụng để mức độ tuyệt vời.Brook sử dụng lợi thế là tốc độ của cuộc tấn công của mình, kết hợp với ánh sáng skeleton trọng lượng cơ thể của mình, anh ta có khả năng đối phó của người cực kỳ chính xác và nhanh chóng (một lần đi xuống và thanh lọc toàn bộ một swarm của Surprise zombies trong một phần nhỏ của một thứ hai) Mặc dù không giữ lại bất kỳ tế bào cơ bắp, có vẻ như là Brook vẫn có thể phát triển mạnh mẽ hơn theo thời gian, như anh nói Ryuuma rằng anh ta bây giờ mạnh hơn năm năm trước đó.

Khi cần Brook cũng có thể sử dụng âm nhạc của mình để giúp anh ta trong trận chiến. Kỹ thuật của anh, “Nemuriuta Flanc”, dịch chuẩn dịch là “lullaby Parry”( Bài Hát Ru), cho thấy điều này, nơi mà anh chơi đàn violon của mình với shikomizue mình tạo ra một chỉnh âm thanh rằng gây bất cứ ai nghe nó ngay lập tức ngủ.
Mặc dù một kiếm khách vô cùng nhanh, những kỹ năng của anh ấy không phải của cùng khẩu kính với Zoro, mũ rơm kiếm khách khác.
Theo : Onepiecefc

Franky

Franky là thợ đóng tàu của băng hải tặc Mũ Rơm. Anh 36 tuổi, là một người-máy đến từ Water 7 và xuất hiện trong câu chuyện với vai trò là lãnh đạo của Gia đình Franky -một đội tháo dỡ tàu. Tên anh vốn là Cutty Flam và anh bỏ cái tên đó theo lời đề nghị của Iceburg để che giấu thân phận của mình. Franky và các đệ tử vốn là địch thủ thuộc Water 7 Arc chống lại băng Mũ Rơm cho đến khi hoàn cảnh buộc họ phải trở thành đồng minh. Theo lời thỉnh cầu của Gia đình Franky, Franky đã được phép gia nhập băng Mũ Rơm để thực hiện ước mơ của mình. Anh là thành viên thứ tám của băng Mũ Rơm và là người thứ bảy gia nhập băng của Luffy. Anh còn là thành viên thứ hai mà trước đó là nhân vật phản diện (người đầu tiên là Nico Robin).


Thông tin

Tên La Tinh: Furankī
Tên Tiếng Anh: Franky
Lần đầu xuất hiện: Chapter 329; Episode 233
Đến từ: Băng Mũ Rơm, Gia đình Franky (trước kia), Tom’s Worker (trước kia)
Nghề nghiệp: Thợ đóng tàu, người tháo dỡ, Trùm tội ác, Hải tặc
Biệt danh : Người máy Franky (Saibōgu Furankī)
Japanese VA: Kazuki Yao, Junko Noda (lúc nhỏ)
Funi English VA: Patrick Seitz,Greg Ayres (lúc nhỏ)
Tuổi: 34 (lúc đầu) ; 36 (sau thời gian xa cách)
Sinh nhật: Ngày 9 tháng 3
Chiều cao: 225 cm
Tên thật: Cutty Flam (Kati Furamu)
Bounty: 44,000,000 Beli


Để làm mình thay đổi hoàn toàn, anh đã xử sự khác hẳn trong nhiều năm và trở thành một người tháo dỡ tàu, thợ săn tiền thưởng , và côn đồ đường phố tại Water 7. Franky là một người đàn ông có sức mạnh to lớn với chiều cao ít nhất là 3 mét và anh là người cao nhất trong nhóm Mũ Rơm. Cẳng tay anh khá to lớn so với bắp tay. Anh có một mái tóc màu xanh da trời và ngôi sao cũng màu xanh da trời xăm trên cẳng tay. Y phục của anh luôn kèm theo một cái đồng hồ đo tốc độ – cái khiến cho mọi người gọi anh là kẻ hư hỏng, một cái áo sơ-mi Hawaii banh rộng và sợi dây xích vàng trên cổ. Khi băng Mũ Rơm bị chia cắt, và làm phòng thí nghiệm của Vegapunk nổ tung, lớp váng đã hủy đi gương mặt của Franky. Anh còn có một cặp kính mát và luôn đeo nó khi mọi việc bắt đầu trở nên nghiêm trọng. Theo như Eiichiro Oda, Franky giống như con bò đực, được miêu tả là hợp với màu xanh sáng (xanh lam) và có mùi như cola.

Sau hai năm, Franky lần đầu xuất hiện với kiểu đầu húi cua, và sau đó anh tiết lộ là mình có thể điều khiển và thay đổi nhiều kiểu tóc khác nhau ngay lập tức bằng cách nhấn vào mũi trong vòng ba giây. Anh còn có hai vết thẹo đã được may lại trên người chạy dọc từ sau cổ cho thấy rằng anh đã đính lớp da sau lưng vào, làm nó trông có vẻ như là cuối cùng thì anh đã tạo ra loại kim loại của mình “bộ xương trong” để bao bọc toàn bộ cơ thể, và không chỉ có phần thấy được ở đằng trước . Vai, thân hình và cẳng tay anh đều to hơn trước nhiều, và với hai bàn tay được khảm gần như người máy nhưng anh còn tiết lộ rằng, bên trong hai bàn tay khổng lồ vẫn còn hai bàn tay thật của anh với kích cỡ thông thường. Hiện tại, anh mặc dây đeo quần bằng kim loại. Anh đã thay thế khuỷu tay của mình bằng hai cái bản lề to, màu xanh, còn vai thì được thay bằng một quả bóng đỏ trên đó có gắn nhãn “BF-37”. Cẳng tay to, hình khối xanh với biểu tượng ngôi sao đặc trưng bị tách ra bởi một cái gờ. Anh là người tự thực hiện những tính năng được nâng cấp này nhưng khả năng và sức mạnh thực sự của chúng vẫn chưa được thể hiện đầy đủ.
Theo : Onepiecefc

Nico Robin


Nico Robin là nhà khảo cổ học (archaeologist) của băng hải tặc Mũ Rơm (Mugiwara Pirates). Cô nguyên là Phó Chủ tịch của Naroque Works, được biết đến dưới cái tên Miss All Sunday trước khi gia nhập Mugiwara. Cô đã ăn Hana Hana no Mi (trái Hoa).

Nico Robin: Ngoại hình, one piece fc, vietsubNico Robin là 1 người phụ nữ cao và quyến rũ và mái tóc đen dài chấm vai. Quần áo cô mặc thường hơi “mát mẻ” 1 chút (nhiều khi hở ngực), có màu tối và bằng da, cô cũng hay đội một chiếc mũ cao bồi rộng vành.Robin rất giống mẹ, ngoại trừ màu và kiểu tóc. Trong anime, màu da của cô tối hơn mẹ mình một chút.
Tác giả Oda trong 1 SBS cũng từng cung cấp các số đo của Robin theo yêu cầu của các fan:
• Chiều cao: 188 cm-cô là người cao thứ 3 trong Mugiwara Pirates.
• Số đo 3 vòng: 99 – 59 – 89

Thông Tin

Tên Latinh: Niko Robin
Tên tiếng Anh: Nico Robin
Xuất hiện lần đầu tiên: Chapter 114 ; Episode 67
Xuất thân: Straw Hat Pirates; Baroque Works (former); Oharan Clan (former); Revolutionary Army (former, temporarily)
Nghề nghiệp: Archaeologist; Pirate; Assassin; Baroque Works Vice President (former)
Biệt danh: Miss All Sunday (Misu Ōrusandē?, Ms. Sunday (4Kids dub));
Devil Child (Akuma no Ko?);
Light of the Revolution
Người lồng tiếng JP: Yuriko Yamaguchi (Episode 67-298, 320+);
Yuko Kobayashi (Episode 299-319);
Anzu Nagai (young)
4kids English VA: Veronica Taylor
Funi English VA: Stephanie Young
Tuổi tác: 28 (debut) , 30 (after timeskip)
Sinh nhật: February 6th
Chiều cao: 188cm (6’2″)
Bounty: 80,000,000

Trái cây ác quỷ

Tên tiếng Nhật: Hana Hana no mi
Tiếng Anh: Hana-Hana Fruit
Ý nghĩa: Hoa
Hệ: Paramecia

Nico Robin là nhà khảo cổ học (archaeologist) của băng hải tặc Mũ Rơm (Mugiwara Pirates). Cô nguyên là Phó Chủ tịch của Naroque Works, được biết đến dưới cái tên Miss All Sunday trước khi gia nhập Mugiwara. Cô đã ăn Hana Hana no Mi (trái Hoa)


Tính Cách

Robin thích học lịch sử. Khi gia nhập Mugiwara Pirates, cô được thoải mái và tự do để nghiên cứu lĩnh vực này. Cô là thành viên ít kì quặc nhất và tính tình kín đáo nhất, không bao giờ biểu lộ những cảm xúc thái quá hay bộ mặt ngổ ngáo (face-faults). Cô sẽ chỉ nói khi có điều gì đáng chú ý xảy ra. Tuy nhiên, cô là một người phụ ngoan cường, chân thành và giàu cảm xúc.
Thông thường, Robin ứng xử một cách rất bình tĩnh, tương phản với những người còn lại của nhóm.

Tuy nhiên, Robin cũng khá là lập dị. Suy nghĩ của cô thường khá kì quặc so với người thường (Nami, Usopp, trong 1 số mặt…). Ví dụ: Khi cô, Zoro và Nami trở lại Going Merry ở Skypea nhưng không tìm thấy Chopper, cô đoán rằng Chopper có thể đã bị xé thành từn mảnh nhỏ; khi cả nhóm đang quyết định cái tên cho thuyền, Robin đề nghị cái tên “Sự tồn tại của bóng tối”….và một con Cerberus như ở Thriller Bark là “cute” đối với Robin….
Trong giao chiến Robin tỏ ra khá tàn nhẫn, sẵn sàng bẻ gãy cổ đối phương không 1 chút do dự, cho dù chúng khóc lóc xin tha thứ. Cô thậm chí cố bẻ cổ Usopp (lúc đó là Sogeking) trên Sea train.
Theo : Onepiecefc

Chopper

Tony Tony Chopper là thuyền y của băng Mũ Rơm. Cậu đến từ Drum Island, thành viên duy nhất băng được sinh ra ở Grand Line . Cậu là thành viên thứ sáu của băng Mũ Rơm và là người thứ năm gia nhập, cũng là thành viên nhỏ tuổi trên tàu. Cậu sở hữu năng lực của trái ác quỉ Hito Hito no Mi.


Hầu hết thời gian, Chopper ở trong hình dạng một cậu bé người lai tuần lộc nhỏ, trái ác quỷ của cậu cho phép cậu thay đổi hình dạng, phụ thuộc vào từng hoàn cảnh. Gạc bên trái của Chopper luôn được bọc bởi một miếng kim loại, kể từ khi bị gãy trong một trận đánh khi cậu còn nhỏ. Trang phục Chopper thường mặc bao gồm một chiêc mũ màu đỏ/hồng nhạt với hình chữ thập y tế nghiêng về một bên (được Hiluluk tặng cho) và một chiếc quần short màu nâu sẫm. Thỉnh thoảng cậu cũng đeo một chiếc ba lô màu xanh da trời có hình chữ thập như trên mũ của cậu. Chopper còn có một nét đặc trưng mà không con tuần lộc nào khác có, đó là chiếc mũi màu xanh, trong khi nhưng con tuần lộc bình thường có mũi màu đen. Phong cách vẽ của Oda thay đổi và phát triển, Chopper có ngoại hình ngày càng “chibi” hơn. Điều này có nghĩa là khi trong hình dạng Brain Point, Chopper có đầu và mắt to hơn. Chopper có nhiều bộ đồ khác nhau, như các thành viên khác trong băng.

Ở Arabasta, cậu mặc một chiếc áo cổ viền xanh lá cây, sau đó là một chiếc áo to hơn với tay áo rộng màu xanh nhạt viên xanh đậm. Ở Enies Lobby, cậu mặc một chiếc áo jacket bằng da màu đỏ. Có một lời nói đùa rằng rất nhiều nhân vật trong One Piece nghĩ Chopper là tanuki (gấu trúc) khi cậu ở dạng Brain Point. Đây là cách nói chơi chữ với từ “tonakai”, tiếng Nhật nghĩa là tuần lộc, bắt nguồn từ “Tony” trong tên Chopper. Dạng Heavy Point của cậu cũng hay bị nhầm với một con gorilla hay một người tuyết xấu xí. Rất nhiều nhân vật nữ, như Nami, Vivi thấy Chopper rất dễ thương. Oda có nói rằng ông đã dùng màu hồng đại diện cho Chopper, và (Oda đang trả lời câu hỏi về Chopper) và về mùi của cậu, “Làm sao tôi biết được?”

Sau 2 năm, Chopper đội một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh và hồng có kích thước gần bằng chiếc mũ cũ của cậu. Dấu X có một vòng tròn bao quanh, một vòng chấm xung quanh hình tròn và chiếc mũ có thêm dây khóa. Cậu cũng mặc một chiếc áo kẻ sọc dọc vàng trắng và một chiếc quần short màu cam. Dạng Brain Point của Chopper có ít thay đổi, trừ việc trở nên nhỏ hơn. Dạng Walk Point của cậu đã phát triển đáng kể, trở nên cao lớn hơn, xấp xỉ Usopp. Sừng cậu đã lớn hơn, và lông dài ra. Dạng Heavy Point của cậu vẫn chưa xuất hiện.


Thông Tin

Tên Latinh: Tonī Tonī Choppā
Tên tiếng Anh: Tony Tony Chopper
Xuất hiện đầu tiên: Chapter 134 ; Episode 81
Xuất thân: Drum Island, băng Mũ Rơm
Nghề nghiệp: cướp biển, thuyền y
Danh hiệu: “Cotton Candy Lover” (わたあめ大好き, Wataame Daisuki )
Người lồng tiếng Nhật: Ikue Otani (tập 83-253, 264 +);
Kazue Ikura (episodes 254-263, movie 7)
4Kids tiếng Anh VA: Lisa Ortiz
Funi tiếng Anh VA: Brina Palencia
Tuổi: 15 (Chương 1-597);17 (Chương 598 đến nay)
Ngày sinh: 24 tháng 12
Bounty: 50 beli

Trái ác quỉ

Tên tiếng Nhật: Hito Hito no Mi
Tên tiếng Anh: Human-Human Fruit
Ý nghĩa: Người
Loại: Zoan
Theo onpiecefc

Usopp

Usopp sinh ra ở làng Syrup. Cậu là xạ thủ của băng hải tặc Mũ Rơm. Mọi người đều biết đến Usopp như là một tên chuyên bốc phét . Anh là thành viên thứ tư của phi hành đoàn, và là người thứ ba tham gia, Cậu bị truy nã với một cái tên khác là Sogeking.


Ngoại hình

Usopp là một thiếu niên gầy với mái tóc quăn đen, đôi môi màu da cam và một cái mũi dài, hình như ám chỉ tới Pinocchio, một cậu bé bằng gỗ từ một câu chuyện cùng tên có cái mũi có thể kéo dài ra sau khi cậu nói dối. Cậu thường mặc một bandanna tối có kẻ sọc màu vàng , một băng tang màu xanh và sọc trắng trên cánh tay trái của mình, đặc biệt là Sniper Goggles (một cặp kính đặc biết giúp cậu tránh bị chói khi nhắm bắn kẻ thù, từng bị Mr2 đánh cắp 1 lần nhưng đã được Sanji giành lại), cậu mặc một cái áo màu nâu áo với một thắt lưng màu trắng và không có áo sơ mi bên dưới (mặc dù cậu có mặc một chiếc áo màu xanh lá cây trong Skypiea Arc). Cậu thường đeo một cái túi màu vàng, nơi lưu trữ tất cả các công cụ và tiện ích của mình. Usopp có mũi dài giống mẹ trông khi hầu hết khuôn mặt anh trông giống với cha của mình, Yasopp. Trong khi tách khỏi nhóm Straw Hat, Usopp hạ cánh vào một hòn đảo lừa đảo và trở nên mập mạp vì ăn quá nhiều.

Sau thời gian 2 năm, Usopp, không còn béo, tóc cậu dài hơn. Cậu cũng trở nên Manly hơn nhiều do cơ bắp phát triển. Bây giờ Usopp có một cặp kính mới quanh cổ (Sniper Goggles của cậu không được nhìn thấy) và có một số tai nghe hoặc tai bảo vệ. Cậu cũng có một chòm râu dê nhỏ cùng với một cái nón trắng mới trên đầu.
Oda cho rằng Usopp là đại diện của armadillo. Oda cũng nói rằng ông sử dụng màu vàng để đại diện cho Usopp, và cậu cũng thường có mùi thuốc súng.


Thông tin
Tên Latinh: Usoppu
Tên tiếng Anh: Usopp
Xuất hiện đầu tiên: Chương 23 ; Tập 8
Chi nhanh: Straw Hat Pirates ; Usopp Pirates (cũ)
Nghề nghiệp: Sniper ; Pirate
Danh hiệu: “Sogeking”;
“Vua của các tay súng bắn tỉa Sogeking” (Sogeki no Ou-sama )
“Sniper King” (Viz)
“Hana Arashi” (tại Enies Lobby Khi còng tay để Zoro)
Nhật VA: Kappei Yamaguchi
4Kids tiếng Anh VA: Jason Anthony Griffith
Funi tiếng Anh VA: Sonny Strait
Tuổi: 17 (đầu tiên)
19 (sau khi timeskip)
Ngày sinh: Ngày 01 tháng 4
Chiều cao: 174 cm (5’8 ½ “)
Bounty: 30000000

Nami

Nami là người thứ 2 Luffy mời vào nhóm. Cô trông khá hấp dẫn với mái tóc ngắn màu cam thân hình cân đối cùng hình xăm của biểu tượng chong chóng-quít bên vai trái.

Nami: Ngoại hình, one piece fc, vietsubĐầu truyện, Nami thường mặc áo thun có tay kiểu đơn giản kết hợp với váy ngắn, dày và giày bốt bằng da.Nhưng đến phần Arlong Park, cô lại mang loại giày hở ngón, mặc những bộ quần áo khá mát mẻ.Ở những chap sau này, cô thường xuyên thay đổi phong cách thời trang của mình, lúc là giày cao gót với đầm liền có nón, lúc là giày bốt cao với áo cột dây hở lưng cùng váy ngắn..v..v.. (chắc là cho theo kịp trào lưu ). Nhiều kiểu áo thun của cô thường in các từ có 4 kí tự như “MODE,” “GOLD” hay “EVIL.

Nami có số đo 3 vòng khá chuẩn: 95-55-85.Và theo như lời của Oda-sensei, Nami có nhiều nét tương đồng với loài mèo, vì thế, ông thường dùng màu cam để miêu tả về cô.


Cùng với Robin, Nami là một trong hai người thông minh nhất nhóm Mũ Rơm, và là người thông minh đứng thứ 3 ở biển Đông.Lúc đầu, cô rất căm ghét hải tặc, vì chúng đã cướp đi người mẹ nuôi thân thương của cô, tàn phá quê hương cô. Cô nghĩ bọn hải tặc chỉ là những kẻ giết người cướp của đáng ghê tởm, và tất cả bọn chúng ko nên tồn tại trên đời này để gây đau khổ cho người khác.Nhưng Luffy và Zoro đã làm cô thay đổi suy nghĩ bằng những hành động rất nghĩa hiệp của mình.

Nami là người có thể làm bất cứ việc gì vì tiền, tính ham tiền của cô bắt nguồn từ việc cô đã phải sống nghèo khổ, ko thể mua những thứ mình thích mà chỉ có thể ăn trộm nó.Dù rất coi trọng tiền bạc, thế nhưng điều thật sự quý giá với cô chính là những thành viên trong nhóm.Cô thà chấp nhận hy sinh, đánh đổi tất cả chứ nhất quyết ko bán rẻ bạn bè bằng bất cứ giá nào.

Nami chịu trách nhiệm kiểm soát chi tiêu trong nhóm, nhất là việc dùng tiền cho thói quen của các thành viên (như mua thịt của Luffy và rượu của Zoro…), cô luôn cố gắng hạn chế việc đó để có thể tiết kiệm được tiền dành cho những trường hợp cần thiết sau này.Vì vậy, cô hay trở nên tức giận một cách đáng sợ khi các thành viên tiêu xài quá mức hoặc bị vuột mất cơ hội kiếm tiền.

Dù ko phải là thuyền trưởng nhưng Nami vẫn hay ra lệnh cho những thành viên khác, kể cả với Luffy.Đặc biệt là trong chiến đấu hoặc khi gặp nguy hiểm, cô thường giao cho mọi người nhiệm vụ giao đấu thay mình.Nami chỉ tự thân chiến đấu khi thật sự cần thiết.Có lẽ vì Nami biết rõ khả năng của mình, cùng với Usopp, là hai người yếu nhất nhóm.Thỉnh thoảng, cô cũng tỏ ra khá gian tà, như hy sinh đồng đội để tự cứu mình (tất nhiên là chỉ trong vài trường hợp bất khả kháng mà thôi và thường đó những khúc gây cười của Oda-sensei ^^).Tuy nhiên, Nami vẫn sẵn sàng từ bỏ thói quen của mình là tránh các việc gây tổn hại đến bản thân để đứng lên chống lại những kẻ làm tổn thương bạn cô.

Một điểm nổi bật khác ở Nami chính là cô nghiện mua sắm quần áo, bằng chứng là chẳng bao giờ thấy cô mặc trùng bộ đồ nào.Vì thế, Nami rất có phong cách trong gu ăn mặc, kể cả cô có khoác lên người những bộ cánh rất đỗi bình thường thay cho những áo váy đắt tiền trong các tiệm sang trọng, cô vẫn hấp dẫn, lôi cuốn và quyến rũ. :’>.Có lẽ vì tự tin vào sắc đẹp cùng thân hình bốc lửa của mình, nên cô chẳng e thẹn hoặc ngại ngùng khi mặc những bộ áo thiếu vải, hở hang đầy vẻ khiêu gợi hay cho người khác chụp hình mình lúc mặc áo tắm (miễn là họ trả tiền).Hơn thế nữa, cô còn cho phép người khác nhìn mình lúc khỏa thân với giá 100,000 beli mỗi lần xem .Nami cũng ko thích kẻ nào lăng mạ, xem thường các kĩ năng về hàng hải của cô.

Sanji

Thông Tin

Tên Latinh: Sanji
Tên tiếng Anh: Sanji
Xuất hiện lần đầu tiên: Chapter 43 ; Episode 20
Xuất thân: Straw Hat Pirates
Nghề nghiệp: Chef; Pirate
Biệt danh: Black-Leg (Kuro Ashi); “Love-Cook” (self); “Little Eggplant” (Zeff: Japanese versions, English manga); “String Bean” (Zeff: 4Kids dub); “Dartboard-Eyebrow” (Zoro: Japanese version)/”Eyebrow Freak” (Zoro: English dub)/”Twirly Brows” (Zoro: English manga); “Cook-san” (Robin); “Mr. Prince” (Baroque Works); “The Hunter” (self)
Người lồng tiếng JP: Hiroaki Hirata , Ikue Otani (young)
4kids English VA: David Moo , Veronica Taylor (young)
Funi English VA: Eric Vale , Christine Auten (young)
Tuổi tác: 19 (debut) 21 (after timeskip)
Sinh nhật: March 2nd
Chiều cao: 177 cm (5′ 9″)
Bounty: 77,000,000

Sanji là người thứ tư Luffy mời vào nhóm. Anh có dáng người cao, mảnh khảnh, mái tóc vàng để phủ một bên mắt trái.Có lẽ vì thế mà mắt trái của Sanji được xem là một trong những điều bí ẩn của thế giới One Piece.Sanji thường ăn mặc khá lịch sự với bộ com lê màu đen dạng áo cài nút chéo,thắt cà vạt và áo sơ mi trong có hoặc ko có sọc.Thỉnh thoảng, anh cũng thay đổi phong cách thời trang của mình như chỉ mặc áo vest đen với sơ mi tay dài màu cam có sọc mà ko có áo khoát (ở đảo Thuỷ Thất) hoặc áo sơ mi tay ngắn có hoa văn sặc sỡ kết hợp với quần lửng đen (Đảo trời).Giày anh hay mang là loại được thiết kế đặc biệt cho kiểu tấn công dùng cước sở trường của anh, nó cực kì bền chắc và giúp gia tăng sức mạnh cho các cú đá.

Lông mày bên mắt phải của Sanji có hình xoắn ốc.Chắc do hình thù hơi kì lạ đó mà anh rất ghét kẻ nào dùng nó để trêu chọc anh. (điển hình là Zoro).Và Sanji còn là một người nghiện thuốc lá nặng (đây là 2 nét đặc trưng nhất của Sanji mà Luffy thường dùng để bắt chước làm trò vui).


Tính cách

Sanji là người cực kì lịch lãm và vô cùng ga lăng đối với phái nữ.Anh đã được dạy là ko bao giờ làm đau hoặc nói lời xúc phạm đến bất cứ cô gái nào kể cả nếu điều đó gây nguy hiểm cho tính mạng của anh.Vì lý do này mà anh thường gặp bất lợi trong chiến đấu khi đụng phải các đối thủ nữ.Sanji cũng rất đa tình, anh thường hay ve vãn, tán tỉnh các cô gái hấp dẫn mà anh bắt gặp, khi ấy gương mặt của anh có biểu hiện hơi bị kì quặc . Sanji khá sâu sắc so với vẻ bề ngoài trông bàng quan của mình, anh thường bảo mọi người hãy lắng nghe thay vì chỉ làm theo ý thích.Do vậy, Sanji được xem là một trong những thành viên chín chắn nhất nhóm (cùng với Robin và Zoro).
Khác với Zoro, Sanji ko hề e ngại việc thể hiện cảm xúc của mình (như la mắng,nổi nóng,mất bình tĩnh, rầu rĩ, than vãn…).

Anh cũng hay nói về vẻ đẹp trai và sức hút của mình bằng việc tự ví mình như hoàng tử trong những câu chuyện thần tiên dù rằng chẳng ai đồng tình cả.Một điểm nổi bật nữa ở tính cách Sanji là anh rất quý trọng thức ăn và công việc nấu ăn của mình, bởi lẽ anh nhận thức được tầm quan trọng mang tính thiết yếu của nó trong việc duy trì sự sống.Vì thế, anh thường nổi giận và trừng phạt những kẻ hoang phí thức ăn hay những kẻ trộm đồ ăn dự trữ trong tủ lạnh.
Theo : onepiecaefc

Roronoa Zoro

Roronoa Zoro là hải tặc, đã từng là thợ săn tiền thưởng và 1 trong các nhân vật chính trong bộ manga & anime One Piece. Anh là người đầu tiên gia nhập băng Hải tặc Mũ Rơm, và hiện đang bị WG & hải quân coi là mối đe dọa lớn nhất và thành viên nguy hiểm nhất sau Luffy. Zoro nổi tiếng là bậc thầy kiếm thuật, sử dụng phái tam kiếm, và sức mạnh khủng khiếp của anh thường khiến người khác nhầm lẫn anh là thuyền trưởng.

Mệnh danh là 1 trong “Bộ 3 quái vật”, Zoro là 1 trong 3 chiến binh mạnh nhất trong nhóm Mũ Rơm. Zoro hiện tại là 1 trong 11 hải tặc, được gọi là “11 Siêu Tân Tinh”, với số tiền thưởng 120.000.000beri.

Roronoah Zoro: Ngoại hình, one piece fc, vietsub

Ngọai hình

Zoro có chiều cao trung bình, cơ bắp săn chắc. Anh hầu như luôn mang theo 3 thanh kiếm, đeo chúng ở hông bên phải bằng băng nịt xanh lá, cho phép anh rút chúng ra dễ dàng bằng tay trái; có thấy có lẽ anh thuận tay trái hay thậm chí thuận cả 2 tay, vì hầu hết những nhân vật mang kiếm đeo kiếm bên trái.

Tay phải anh thường đặt lên chúng, dù vậy anh luôn dùng cánh tay này, dù vậy anh cũng dùng để rút kiếm ra khỏi bao, đang đeo trên băng nịt, thường là chỉ trước khi ngồi xuống. Zoro đeo 3 chiếc khuyên tai bằng vàng hình kiếm giống hệt nhau, ở bên tai trái (nhưng bất kì ai cũng có thể giật nó ra, như luffy đã làm), thể hiện 3 thanh kiếm của anh, và thường cột khăn quấn đầu quanh cánh tay trái.

Như vậy có nghĩa là anh thuận cả 2 tay, vì anh phải tháo khăn bằng tay phải ( trong khi rút kiếm bằng tay trái). Anh làm vậy để cột khăn quấn quanh đầu khi anh đấu nghiêm túc. Áo Zoro thỉnh thoảng có thay đổi, nhưng anh thường mặc quần xanh đen, đi giầy xanh và quấn băng nịt xanh lá quanh thắt lưng.

Zoro hầu hết thường thấy mặc áo thun trắng đơn giản với 3 khuy áo quanh cổ, nhưng sau này khi đánh ở Thriller Bark nó đã bị rách tan nát, mỗi arc anh mặc 1 áo sơ mi khác nhau: trước mộ hải tặc Rumbar, sau khi anh tỉnh lại; và lúc ở địa bàn của băng “Kỵ sĩ chuồn chuồn bay” và ở quần đảo Sabaody, và lần cuối anh đc thấy là đang ở trong tình trạng như Perona.

Cơ thể Zoro có nhiều vết sẹo do các trận chiến; đặc biệt nhất vết sẹo khi ở Baratie arc, anh thách đấu với đệ nhất kiếm sĩ thế giới, đồng thời là 1 trong Shichibukai, Juracule Mihawk và đã thua, Mihawk đã để lại vết sẹo lớn kéo dài từ vai trái tới hông phải.

Trong khi ở Little Garden, anh cố tự giải thóat mình khỏi bẫy ngục sáp của Mr3, bằng cách tự chặt chân chân. Dù vậy anh không thành công, tự để lại vết sẹo quanh mắt cá chân. Những vết sẹo đó có thể thấy rõ qua những mũi khâu đen.

Một đặc điểm đặc trưng khác của Zoro là mái tóc màu xanh lá, điều này làm Sanji thường chọc anh, gọi anh là marimo-đầu rong biển.

Sau 2 năm time-skip, Zoro có thêm vết sẹo mới ngay trên mắt trái (dù rằng lần tái hiện đầu tiên trong hình cover chapter 598, có sự nhầm lẫn nên vết sẹo nằm ở mắt phải), nhưng anh có thể mở con mắt đó, được thấy qua chapter 605, khi đánh với Kraken. Cổ Zoro trông như to hơn, nhiều cơ bắp hơn. Zoro bây giờ mặc áo choàng dài hở ngực màu xanh lá đen, và cột lại bằng sợi dây đai đỏ ngay thắt lưng, đeo kiếm ngay chỗ đó và khăn cột đầu quấn quanh tay áo bên trái.

Anh không mặc áo sơ mi bên trong, và sợi băng nịt xanh lá được buộc bên dưới áo choàng. Có một dấu thập trên thanh kiếm anh đang cầm, có lẽ anh đã cải tiến nó trong quá trình luyện tập.
Theo lời Oda, Zoro tượng trưng cho cá mập, ông dùng màu xanh lá hình dung Zoro và anh có mùi của thép.

Monkey D. Luffy

Monkey D. Luffy là một hải tặc theo đúng như mong ước của cậu và cũng chính là nhân vật chính của bộ truyện One Piece. Anh là con trai của người chỉ huy quân đội cách mạng kiêm tội phạm nguy hiểm nhất thế giới, Monkey D. Dragon, cháu nội của anh hùng hải quân nổi tiếng, Garp , và là người em trai kết nghĩa của “hỏa trảo” Portgas D. Ace và Sabo (cả hai đều đã chết). Anh ít khi bày tỏ cảm xúc ví anh trông lúc nào cũng vui vẻ và lạc quan giống như Shank nhưng anh không thể chịu được khi nhìn thấy sự đau khổ và bất hạnh của dân chúng và anh sẵn sàng đấu tranh cho họ bất kể kẻ thù của họ là ai và hùng mạnh như thế nào, cậu luôn tin tưởng vào ước mơ của con người .Mục tiêu của cậu là trở thành Vua Hải Tặc bằng cách đi tìm kho báu của cựu hải tặc vương, Gol D. Roger. Cậu tin rằng khi trở thành vua hải tặc có nghĩa là người tự do nhất trên thế giới.Luffy Là người sáng lập và là thuyền trưởng của Băng Hải Tặc Mũ Rơm, cậu là thành viên đầu tiên tạo nên các thủy thủ đoàn cũng như một trong bộ ba quái vật của băng nhóm.




“Bộ ba quái vật” : Luffy, Zoro, Sanji

Luffy là một trong mười một cướp biển tân binh người đã được gọi là ” Mười một Siêu tân tinh “,đó là những tên cướp biển với số tiền thưởng trên 100.000.000 đã tới Red Line . hiện nay là tiền thưởng của Luffy đã là 400000000, được tuyên bố bởi các ” kẻ mạo danh “sau thời gian cậu mất tích, và được xác nhận bởi một trong các Pacifista khi hắn đọc thông tin của cậu . Luffy có danh tiếng trên toàn thế giới vì đã gây rắc rối, thậm chí trong số các Yonkou , các Shichibukai , và Thủy quân lục chiến, phạm những hành động được coi là nguy hiểm do Chính phủ thế giới . Luffy đã nhiều lần phạm tội chống lại chính phủ thế giới. cậu đã đạt được tiếng là “thiếu thận trọng ‘và, trong một số trường hợp,’ cậu được cho là điên ‘, sau khi gây nên sự cố tại Enies Lobby , đi vào và thoát khỏi Impel Down , và gia nhập cuộc chiến ở Tổng bộ Hải Quân. Điều này cho cậu ta một tiếng tăm là đã phá 3 cơ quan quan trọng nhất của chính phủ mà vẫn an roàn thoát khỏi. Cộng với việc cậu đã đấm bay một Tenryuubito cho nên cậu đã được gắn danh hiệu “phần tử nguy hiểm nhất trong tương lai”. Cậu đã ăn trái Gomu Gomu no Mi.




Ngoại hình

Luffy nổi tiếng với thương hiệu của mình là đội một chiếc mũ rơm (từ đó cậu có được biệt danh là Luffy mũ rơm) cái mũ rơm ấy là của thuyền trưởng cướp biển huyền thoại, Shanks Tóc đỏ cho cậu mượn khi cậu còn trẻ và hẹn sẽ lấy lại nó khi cậu đã nổi tiếng và thành danh. trang phục của cậu có phần bắt chước Shanks ‘trang phục riêng của anh ta là mặc quần ngắn (mặc dù của cậu ngắn hơn nhiều so cới Shanks) cùng với một đôi dép và áo vest. Luffy có một vết sẹo với 2 mũi khâu bên dưới con mắt của cậu (cậu đã tự đâm vào mắt mình để chứng tỏ sự dũng cảm trong Chương 1 ). Luffy có mái tóc đen ngắn. Anh dường như là hơi gầy gò, tuy nhiên bên dưới chiếc áo sơ mi của mình, Anh có một vóc dáng cũng được xây dựng đáng ngạc nhiên. Trong một thời gian tập luyện, anh đã trở nên vạm vỡ hơn. Luffy, phần lớn, có cùng một bộ trang phục như nhau, trái ngược với phần còn lại của thủy thủ đoàn. Luffy có thể mặc một bộ trang phục khác nhau cho phù hợp với khí hậu của một hòn đảo (giống như đội một mũ trùm đầu khi đi vào vương quốc Drum hoặc áo choàng sa mạc khi ở Arabasta ), nhưng sau đó sẽ ăn mặc lại như cũ khi đến đảo khác có khí hậu ôn hòa dễ chịu hơn.

Mặc dù Luffy thường xuyên mặc áo đỏ và quần short ngắn màu xanh, cậu sẽ mặc trang phục bình thường của mình với nhiều màu sắc khác nhau. Ví dụ, trong Enies Lobby Luffy mặc quần short màu đen vì chúng có túi trong đó để anh có thể mang thịt, trên Thriller Bark anh mặc một chiếc áo khoác màu da cam và quần soóc màu đỏ, và trên quần đảo Sabaody cậu mặc một bộ vest màu xanh và quần short màu xanh đậm. Trong thời gian đào tẩu tại Impel Down, Luffy đã mặc vest màu xanh sáng với quần short màu đỏ và sau cuộc chiến giữa Magellan và Luffy, Inazuma cho cậu một chiếc áo khoác màu vàng. Khi anh chiến đấu, chiếc mũ rơm của Luffy có thể dễ dàng bị rớt ra khỏi đầu cho nên thường thì cậu phải để nó sang một bên hoặc nhờ người khác giữ giùm cho mình, sau này khi cậu được Nami khâc cho ột dây đeo ở nón, cậu có thể đeo nó sau đầu và chiến đấu bình thường.

Theo : onepiecefc

One Piece


One Piece là một bộ shounen manga của tác giả Eiichiro Oda được phát hành định kỳ bởi tạp chí Weekly Shonen Jump, ra mắt lần đầu ngày 4 tháng 8 năm 1997 trên ấn bản số 34. Bản tankobon của truyện được xuất bản bởi NXB Shueisha với tập đầu tiên phát hành ngày 24 tháng 12 năm 1997. Đến tháng 6/2009 One Piece có tổng cộng 54 tập. Câu chuyện là một cuộc hành trình của ước mơ và niềm tin, đi tìm kho báu hải tặc lớn nhất “One Piece” cũng như thực hiện ước mơ cho riêng mỗi người của nhóm hải tặc Mũ Rơm. Hành trình bắt đầu từ Monkey D. Luffy, một cậu bé 17 tuổi, với ước mơ trở thành vua hải tặc và tìm ra One Piece. Khi viết bộ truyện này, Oda đã bị ảnh hưởng lớn từ Dragon Ball.

Bộ truyện đã được chuyển thể thành original video animation (OVA) sản xuất năm 1998 bởi Production I.G. Nó sau đó được chuyển thể thành một bộ anime (hoạt hình Nhật) hoàn chỉnh bởi Toei Animation, phát sóng trên đài Fuji Television ở Nhật vào ngày 20 tháng 10 năm 1999. Đến ngày 16 tháng 5 năm 2009, có tổng cộng 401 tập được phát sóng. Ngoài bộ anime và OVA, One Piece còn được Toei chuyển thể thành mười bộ phim, và hàng loạt trò chơi dựa vào bộ truyện này cũng đã được phát hành.

Với hơn 158 triệu bản in được bán, One Piece là manga có số lượng bán ra cao nhất trong lịch sử Weekly Shonen Jump[1]. Nó được coi là bộ truyện được yêu thích nhất và có số lượng bán ra cao nhất trong mọi thời đại ở Nhật.

Tại Việt Nam, One Piece đã được NXB Kim Đồng mua bản quyền và phát hành tập 1 vào ngày 12/12/2008.

Cốt truyện

Một cậu bé tên Monkey D. Luffy, được khuyến khích bởi người anh hùng thuở nhỏ Shanks “Tóc đỏ”, giong buồm ra khơi trên chuyến hành trình tìm kho báu huyền thoại One Piece và trở thành Vua hải tặc. Để làm được điều này, cậu phải đến được tận cùng của vùng biển nguy hiểm và chết chóc nhất thế giới: Grand Line (Đại Hải Trình).

Luffy lãnh đạo nhóm hải tặc Mũ Rơm qua East Blue (Biển Đông) và rồi tiến đến Grand Line. Cậu theo dấu chân của vị vua hải tặc quá cố, Gol D. Roger, chu du từ đảo này sang đảo khác để đến với kho báu vĩ đại One Piece. Mỗi thành viên trong nhóm đều có 1 quá khứ rất đặc biệt và đáng buồn. Ngoài khả năng đặc biệt trong công việc của mình, bất cứ thành viên nào cũng có khả năng chiến đấu rất tốt.

Cho đến nay, thủy thủ đoàn chính thức của băng Mũ Rơm gồm 9 người:
Thuyền trưởng Monkey D. Luffy.
Kiếm sĩ Roronoa Zoro.
Hoa tiêu Nami.
Xạ thủ Usopp (Sogeking).
Đầu bếp Sanji.
Bác sĩ Tony Tony Chopper.
Nhà khảo cổ Nico Robin.
Thợ đóng thuyền Franky.
Nhạc công Brook.
Trong suốt câu chuyện, họ chiến đấu với cả những băng hải tặc xấu xa khác và Hải quân. Hải quân là thuộc cấp của Chính phủ thế giới, những kẻ tìm kiếm công lý qua việc chấm dứt Đại kỉ nguyên Hải tặc. Nhiều chi tiết bối cảnh trong truyện nói về sự cân bằng quyền lực mỏng manh giữa Chính phủ thế giới và những băng hải tặc hùng mạnh nhất thế giới.



Bối cảnh


Thế giới hư cấu của One Piece được bao bọc bởi hai đại dương lớn, được phân cách bởi một dãy núi khổng lồ được gọi là Red Line (Hồng Tuyến). Grand Line (Đại Hải Trình), một vùng biển chạy vuông góc với Red Line, chia chúng ra thành bốn biển: North Blue (Biển Bắc), East Blue (Biển Đông), West Blue (Biển Tây) và South Blue (Biển Nam). Bao quanh Grand Line là hai vùng nước gọi là Calm Belt, một nơi không hề có bất cứ luồng gió cũng như dòng hải lưu nào, và là ổ sinh trưởng của những quái vật biển khổng lồ gọi là Hải Vương. Chúng đóng vai trò rất hữu hiệu trong việc làm rào chắn ngăn những kẻ muốn vào Grand Line. Tuy tàu hải quân có thể đi qua chúng nhờ sử dụng đá biển để ẩn sự có mặt của họ, hầu hết phải sử dụng hệ thống kênh đào của Reverse Mountain, một ngọn núi nằm ở giao điểm đầu tiên của Grand Line và Red Line. Nước biển từ mỗi đại dương chạy dọc lên núi và hợp nhất lại ở đỉnh tạo nên con kênh thứ năm, dẫn đường xuống nửa đầu Grand Line. Nửa sau của Grand Line, đằng sau giao điểm thứ hai giữa hai đường, còn được gọi là Tân Thế Giới.

Dòng biển và thời tiết trong vùng giữa đại dương Grand Line cực kì khó đoán biết, trong khi ở phạm vi gần các đảo thì lại ổn định. Điều khiến di chuyển trong Grand Line lại càng khó khăn hơn là do la bàn thường không hoạt động ở đây, mà phải dùng một loại la bàn đặc biệt tên là Log Pose. Log Pose hoạt động bằng cách tích từ trường của hòn đảo này đến hòn đảo khác. Thời gian cho nó tích tuỳ vào từng đảo. Quá trình này có thể được bỏ qua nhờ Eternal Pose, một loại Log Pose được gắn cố định vào một hòn đảo nhất định và không bao giờ đổi.

Thế giới One Piece đầy ắp những vật không phù hợp niên đại, như Sâu truyền tin (Den den mushi, nghĩa đen là Bọ chuyển điện tử), những loài vật nhìn giống sên có thể gắn vào các thiết bị điện tử và được dùng làm điện thoại quay số, máy fax, camera giám sát, và v.v. Dial , vỏ sò của một loại động vật sống ở trên trời có thể dùng để lưu trữ gió, âm thanh, hình ảnh, nhiệt, v.v…và được áp dụng vào nhiều việc khác nhau.


Trái ác ma (Akuma no Mi, hay Trái cây ác quỷ) là một loại trái cây trao cho người ăn một loại sức mạnh nào đó. Có ba loại trái ác ma. Loại Zoan cho phép người sử dụng biến hình toàn phần hay bán phần thành một con vật nào đó. Loại Logia cho phép người dùng “biến đổi cấu trúc cơ thể thành sức mạnh của thiên nhiên” và giao cho họ toàn quyền điều khiển chúng.[17] Tất cả những thứ gì không thuộc hai loại trên nằm vào hạng mục Paramecia. Những người sử dụng trái cây ác quỷ không thể bơi[19]. Thậm chí khi chỉ bị ngâm vào nước một phần, họ cũng không thể dùng năng lực của mình hiệu quả và tạm thời bị mất sức mạnh.


Sản xuất


One Piece bắt đầu từ hai truyện ngắn có tên Romance Dawn – sau này được dùng cho tên của tập một và chương một của One Piece. Hai truyện ngắn ấy kể về Luffy, và sử dụng những yếu tố sau này sẽ nằm trong bộ truyện chính. Truyện ngắn đầu tiên được xuất bản vào tháng 8/1996 trong một ấn bản đặc biệt của Shonen Jump và sau đó trong One Piece Red. Truyện thứ hai được xuất bản trong ấn bản số 41 của Shonen Jump năm 1996 và in lại ở tập truyện ngắn của Oda: Wanted!


Oda lúc đầu dự định cho One Piece kéo dài năm năm và đã xác định sẵn kết cuộc của câu chuyện, nhưng rồi lại quá hứng thú với nó nên không thể kết thúc trong khoảng thời gian đó, và cuối cùng không biết sẽ mất bao lâu mới kết thúc được. Tuy nhiên, vào tháng 7/2007, tác giả khẳng định rằng kết cuộc vẫn sẽ là cái kết ông định từ đầu và ông quyết tâm theo nó đến cùng, cho dù có mất hàng năm trời.


Tên của nhiều đòn tấn công đặc biệt và vài thuật ngữ trong truyện có chứa một dạng chơi chữ, trong đó những từ viết bằng Hán tự đi đôi với một cách phát âm khác thường. Chẳng hạn như tên gọi của những đòn đánh của Luffy, Sanji, Chopper, Robin và Franky thường được trộn lẫn với những ngôn ngữ khác, và tên nhiều kĩ thuật của Zoro thường kèm với một trò đùa; chẳng hạn như chúng trông rất đáng sợ nhưng khi đọc ra lại nghe giống tên đồ ăn. Eisaku Inoue, nhà đạo diễn hoạt hình, đã phát biểu rằng những nhà sản xuất anime không sử dụng chữ Hán tự trong phim do chúng “có thể làm cho trò cười bị giảm đi một nửa”.Tuy nhiên, Konosuke Uda, tổng đạo diễn, nói rằng ông tin những nhà sản xuất đã “làm cho anime khá gần với manga”.


Anime

Xuất bản bởi Toei Animation, bộ anime One Piece lần đầu tiên ra mắt tại Nhật trên đài Fuji TV vào ngày 20/10/1999, và vẫn tiếp tục được chiếu. Cho đến nay, đã có hơn 400 tập được phát sóng.


Ở Mỹ, từ năm 2006 về trước, bộ anime được lồng tiếng và khởi chiếu cũng như phát hành DVD bởi 4Kids Entertainment, nhưng do những vấn đề về sửa đổi và cắt bớt quá nhiều so với bản gốc trong anime mà 4Kids đã phải ngừng phát sóng. Vào ngày 12/4/2007, Funimation Entertainment thông báo đã lấy được giấy phép phân phối One Piece và vẫn đang phát hành các bộ DVD chứa cả giọng lồng tiếng Anh và tiếng Nhật có phụ đề, mỗi bộ gồm 13 tập.


Số tháng 7 năm 2008 của Tuần báo Shonen Jump thông báo rằng câu truyện ngắn đầu tiên làm tiền đề cho One Piece, Romance Dawn, đã được chuyển thể thành anime OVA như một phần của Jump Super Anime Tour.


Phim
Từ lúc phát sóng bộ anime trên truyền hình, Toei Animation cũng đã sản xuất chín bộ phim truyện One Piece, thường được phát sóng vào kì nghỉ xuân của học sinh Nhật từ năm 2000. Tuy nhiên ba bộ phim đầu chỉ dài chưa đến một tiếng và được phát song song với những bộ phim anime khác[cần dẫn nguồn]. Những bộ phim này có cốt truyện tách biệt và hoàn toàn mới, với hoạt hoạ chất lượng cao hơn bộ anime được trình chiếu hàng tuần trên TV.


Ngoài ra, ba trong số những bộ phim này còn chứa các bộ phim ngắn đặc biệt, thể hiện những nhân vật trong các hoạt động khác nhau không liên quan đến câu chuyện chính. Họ nhảy múa trong Jango’s Dance Carnival ở Chuyến phiêu lưu trên Đảo Máy đồng hồ; chơi bóng đá trong Giấc mơ Vua Bóng đá! ở Vương quốc Chopper trên đảo Thú lạ; và chơi bóng chày trong Nhắm bắn! Vua Bóng chày Hải tặc với Lời nguyền Kiếm thiêng.
Theo : Onepiecefc

Dev-C++

Dự án phát triển Dev-C++ được lưu trữ trên SourceForge. Dev-C++ nguyên được phát triển bởi một lập trình viên có tên là Colin Laplace và chỉ chạy trên hệ điều hành Microsoft Windows.

Dev-C++ của Bloodshed Software là một Môi trường Phát triển Tích hợp (IDE) có hỗ trợ đầy đủ tính năng cho ngôn ngữ lập trình C/C++. Nó sử dụng trình MinGW của GCC (Bộ trình dịch GNU) làm trình biên dịch. Dev-C++ cũng có thể được dùng kết hợp với Cygwin hay bất kỳ trình dịch nền tảng GCC nào khác.

C++


C++ là một loại ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng. Đây là một dạng ngôn ngữ đa mẫu hình tự do có kiểu tĩnh và hỗ trợ lập trình thủ tục, dữ liệu trừu trượng, lập trình hướng đối tượng, và lập trình đa hình. Từ thập niên 1990, C++ đã trở thành một trong những ngôn ngữ thương mại phổ biến nhất trong khi đó.


Bjarne Stroustrup của Bell Labs đã phát triển C++ (mà tên nguyên thủy là "C với các lớp" trong suốt thập niên 1980 như là một bản nâng cao của ngôn ngữ C. Những bổ sung nâng cao bắt đầu với sự thêm vào của khái niệm lớp, tiếp theo đó là các khái niệm hàm ảo, chồng toán tử, đa kế thừa, tiêu bản, và xử lý ngoại lệ. Tiêu chuẩn của ngôn ngữ C++ đã được thông qua trong năm 1998 như là ISO/IEC 14882:1998. Phiên bản hiện đang lưu hành là phiên bản 2003, ISO/IEC 14882:2003. Hiện tại tiêu chuẩn mới nhất của ngôn ngữ C++ là C++11 (ISO/IEC 14882:2011).

Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2014

Doge meme

Doge là tên "cún cưng" của chú chó Shiba (hay còn gọi là Shibe) có biểu cảm hài hước.

Các tấm hình của Shiba đều được "photoshop" một cách rẻ tiền và cách đoạn khen ngợi chú chó này đều được viết bằng bộ font Comic Sans (một điều tối kỵ với những người làm thiết kế). Vào đầu năm nay, một diễn đàn dành riêng cho "Doge" được thành lập tại trang mạng xã hội Reddit và chú chó cùng "meme" này trở nên nổi tiếng hơn nữa.

Meme


Đối với rất nhiều cư dân mạng, khái niệm này giống với những tấm hình hài hước được chia sẻ trên các mạng xã hội, những website hài hước. Tuy nhiên, bạn có biết Meme thực chất mang ý nghĩa của một trào lưu trên Internet, những trào lưu bắt chước theo một hình mẫu nhất định?

Nói một cách dễ hiểu, "meme" là một biểu tượng về mặt văn hóa hoặc một ý tưởng nào đó được lan truyền trên mạng Internet.

Dogecoin


Dogecoin (/ˈdoʊʒkɔɪn/), ký hiệu: DOGE, biểu tượng: Ð hoặc D), là một loại tiền tệ kỹ thuật số được dựa trên Litecoin. Thiết kế của nó lấy ý tưởng từ meme "Doge". Nó được ra mắt vào ngày 8 tháng 12 năm 2013. Dogecoin có tốc độ tạo xu ban đầu nhanh hơn so với các loại tiền tệ kỹ thuật số khác. Sẽ có xấp xỉ 100 tỉ xu được lưu hành vào cuối năm 2014. Sau đó, 5,2 tỉ xu sẽ được tạo ra mỗi năm. Cho đến ngày 1 tháng 2 năm 2014, đã có 40.578.746.592 xu được đào. Mặc dù hiện tại Dogecoin có ít ứng dụng thương mại, loại tiện tệ này đang tiến tới việc được sử dụng rộng rãi để tặng tiền boa qua mạng sau khi một người đăng thông tin thú vị hoặc hữu ích lên các cộng đồng trên mạng . Khẩu hiệu của Dogecoin là “To the moon!

BTC - Bitcoin

Bitcoin (ký hiệu: BTC) là một loại tiền tệ kỹ thuật số phân cấp dựa trên một mã nguồn mở, giao thức internet ngang hàng. Nó được giới thiệu bởi một nhà phát triển tên là Satoshi Nakamoto trong năm 2009.

Trên bình diện quốc tế, bitcoin có thể được trao đổi trực tiếp bằng máy tính cá nhân thông qua một tập tin ví hoặc một trang web mà không cần một tổ chức tài chính trung gian nào. Trong thương mại, 1 Bitcoin được chia thành 100 triệu đơn vị nhỏ hơn gọi là satoshis, được xác định bởi tám chữ số thập phân.

Bitcoin có cách hoạt động khác hẳn so với loại tiền tệ điển hình: không có một ngân hàng trung ương nào quản lý và nó chỉ dựa trên mạng ngang hàng thuộc internet. Sự cung ứng tiền là tự động, hạn chế, phân chia và có dự kiến, và chúng được cấp cho các máy chủ hoặc "Bitcoin miners" nhằm xác minh giao dịch Bitcoin và ghi chúng vào tệp lưu trữ nhật ký giao dịch cứ 10 phút một. Đăng nhập được mã hóa bởi chữ ký số ECDSA và được xác nhận bởi chuỗi các quá trình xử lý brute force các hàm băm SHA256 biến đổi một cách phức tạp bởi "bitcoin miners." Phí giao dịch có thể áp dụng cho giao dịch mới tùy thuộc vào sự giới hạn trên các nguồn tài nguyên của mạng. Cứ 10 phút hoặc một "block" (gói) của nhật ký giao dịch được gán cho một lượng tiền cung ứng. Số tiền cho mỗi gói phụ thuộc vào thời gian hoạt động của mạng lưới. Hiện tại, 25 bitcoin được cấp phát cho mỗi 10 phút - block. Nó sẽ giảm một nửa còn 12,5 BTC trong năm 2017 và tiếp tục giảm một nửa cho 4 năm tiếp sau cho đến khi có 21 triệu bitcoin lưu hành trên thị trường trực tuyến vào năm 2140.

PTU


PTU (Paid to upload)

Paid to upload  là hình thức kiếm tiền qua mạng (trả tiền cho việc upload và chia sẻ), bạn upload dữ liệu của bạn lên host sau đó đem share cho người khác download và bạn sẽ nhận được tiền. Cái này nói nghe có vẻ đơn giản? Nhưng không đơn giản như bạn nghĩ đâu, thường thì một trang web cho phép bạn kiếm tiền theo cách này sẽ trả tiền cho bạn khoảng 5USD cho tới 40USD cho 1000 lượt download, tùy vào địa chỉ IP của người download nằm ở vùng nào và tùy vào dung lượng file bạn share mà bạn có thể nhận được số tiền trong khoảng đó.

PTC


PTC là viết tắt của từ Paid To Click. Cái tên có lẽ đã nói lên tất cả ý nghĩa của nó, nghĩa là "Trả tiền cho việc click". Cụ thể ở đây là click các quảng cáo mà một trang PTC cung cấp.